Sau khi anh trai qua đời, mâu thuẫn chị dâu, em chồng phát sinh dẫn đến người em khởi kiện đòi hủy văn bản giao thừa kế cho anh đã có hiệu lực gần 20 năm trước.
Sau khi anh trai qua đời, mâu thuẫn chị dâu, em chồng phát sinh dẫn đến người em khởi kiện đòi hủy văn bản giao thừa kế cho anh đã có hiệu lực gần 20 năm trước.
Năm 2003, bà N.T.N.M. được chia thừa kế 2 thửa đất ở TP Vĩnh Long gồm 111,2m2 thửa 96 và 245,2m2 thửa 143. Sau khi nhận thừa kế, bà M. ký văn bản giao cho anh ruột là ông N.V.C. hưởng trọn 2 phần đất trên. Văn bản giao thừa kế lập ngày 16/10/2003, có công chứng và ông C. đã kê khai đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Năm 2009, ông C. qua đời nên bà N.T.N.Y. (vợ ông C.) thực hiện thủ tục kê khai nhận thừa kế di sản của chồng là các phần đất trên.
Ngày 11/10/2019, bà Y. chuyển nhượng thửa đất 96 cho người khác làm bà M. không hài lòng dẫn đến chị dâu, em chồng mâu thuẫn và bà M. đã gửi đơn khởi kiện ra tòa yêu cầu hủy văn bản giao thừa kế QSDĐ cho ông C., đồng thời công nhận cho bà M. được quyền sử dụng 2 thửa đất mà bà được chia thừa kế vào ngày 9/6/2003 vì trên đất hiện có căn nhà cấp 4 gia đình bà đang sinh sống.
Bà Y. không đồng ý yêu cầu trên và có đơn phản tố, yêu cầu gia đình bà M. di dời tài sản trả lại đất. Bà Y. sẽ cho gia đình bà M. thửa đất 191 diện tích 104,7m2 cách vị trí đang tranh chấp vài trăm mét và sẽ hỗ trợ chi phí di dời tài sản, xây lại nhà tổng cộng 200 triệu đồng. Trường hợp bà M. không nhận thửa đất 191 thì bà Y. sẽ giao 500 triệu đồng cho bà M. tự sắp xếp nơi ở khác.
Từ những chứng cứ thu thập được, HĐXX cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng yêu cầu khởi kiện của bà M. là không có căn cứ chấp nhận. Cụ thể, sau khi được chia thừa kế vào năm 2003, bà M. đã tự nguyện chuyển giao cho anh trai là ông C. trọn quyền hưởng thừa kế phần đất diện tích 245,2m2 và 111,2m2.
Trong văn bản giao thừa kế QSDĐ, bà M. xác định đã hiểu rõ và lập ra văn bản trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị ai lừa dối hay ép buộc. Văn bản này được lập tại phòng công chứng, đã có hiệu lực pháp luật nên quyền lợi và nghĩa vụ của bà M. chấm dứt kể từ khi bà M. ký vào văn bản giao 2 phần đất trên cho ông C..
Kết luận giám định ngày 8/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Vĩnh Long cũng xác định, dấu vân tay trong văn bản giao thừa kế QSDĐ lập ngày 16/10/2003 là của bà M., chứng tỏ bà M. đã tự nguyện lăn tay vào văn bản giao cho ông C. hưởng 2 phần đất trên.
Quá trình giải quyết vụ án, bà M. không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh có thực hiện kê khai, đăng ký QSDĐ được chia thừa kế vào ngày 9/6/2003 hay tài liệu, chứng cứ khác làm cơ sở cho việc yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của văn bản giao thừa kế ngày 16/10/2003.
Do đó, HĐXX cả 2 cấp đều tuyên không chấp nhận yêu cầu được đứng tên QSDĐ diện tích 111,2m2 thửa 96 và 245,2m2 thửa số 143 mà bà M. đã cho anh trai gần 20 năm trước. Do trên đất tranh chấp có căn nhà gia đình bà M. đang ở nên buộc bà M. cùng các thành viên trong gia đình phải di dời tài sản, giao trả lại đất cho bà Y. và được lưu cư thời gian 6 tháng.
Bà Y. được quản lý, sử dụng nhà và vật kiến trúc gắn liền trên đất nhưng phải bồi hoàn giá trị nhà và chi phí di dời cho bà M. tổng cộng 300 triệu đồng. Công nhận sự tự nguyện của bà Y. cho gia đình bà M. thửa đất 191 để bà M. làm nơi ở mới nên bà M. có quyền kê khai, đăng ký QSDĐ theo quy định.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin