(VLO) Trước đây mặt hàng rau quả và trái cây từ chỗ vốn được ít coi trọng trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu của ngành nông nghiệp. Thế nhưng chỉ trong vòng thập kỷ qua, đặc biệt trong 5 năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu trái cây liên tục tăng mạnh ở mức hai con số mỗi năm, đưa mặt hàng này vào “CLB xuất khẩu tỷ đô” của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Năm 2024, xuất khẩu trái cây và rau quả của Việt Nam tăng kỷ lục, đạt 7,12 tỷ USD. Vậy câu hỏi đặt ra trái cây Việt Nam sẽ cần phải làm gì để giữ được “ngôi vương”, phát huy được hiệu quả kinh tế.
![]() |
Nông dân xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ thu hoạch chôm chôm. |
Chủ yếu xuất khẩu tươi, thô
Theo ông Trần Anh Hùng- Giám đốc Trung tâm Quy hoạch 2, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, tổng diện tích cây ăn trái toàn quốc có 1,269 triệu hecta, sản lượng đạt 1,3887 triệu tấn.
ĐBSCL là vùng có diện tích cây ăn trái lớn nhất cả nước chiếm 31,8% tổng diện tích, tiếp đến các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc có khoảng 271,9 ngàn hecta, chiếm 21,4% diện tích cây ăn trái cả nước.
Về chủng loại cây ăn trái của Việt Nam rất đa dạng, phong phú; trong đó chuối có diện tích lớn nhất (chiếm 12,72% tổng diện tích), tiếp đến sầu riêng (11,8%), cây có múi gần 15%.
Trong những năm gần đây, việc mở cửa thị trường quốc tế cho các loại nông sản và trái cây tươi của Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến lớn trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt, việc xuất khẩu các loại trái cây vào thị trường Trung Quốc và các quốc gia khác đã mở ra nhiều cơ hội và lợi ích cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã đàm phán, mở cửa được thị trường 19 loại nông sản có nguồn gốc thực vật và trái cây tươi xuất khẩu chính ngạch sang một số thị trường chính như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Úc, bao gồm: thanh long, mít, dưa hấu, nhãn, vải, chuối, xoài, chôm chôm, măng cụt, chanh leo, sầu riêng tươi, dừa, sầu riêng đông lạnh, vú sữa, bưởi, chanh…
PGS.TS Phạm Anh Tuấn- Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ Nông nghiệp-PTNT) cho hay: Hiện Việt Nam có khoảng 150 nhà máy chế biến có dây chuyền công nghệ hiện đại và khoảng 7.500 cơ sở chế biến bảo quản trái cây, rau củ.
Tuy nhiên, việc chế biến chỉ mới đáp ứng khoảng 10-17% sản lượng rau quả/năm. Số còn lại rau quả xuất khẩu chưa qua chế biến và tiêu thụ vẫn ở dạng tươi hoặc sơ chế bảo quản là chủ yếu, tổn thất sau thu hoạch còn quá cao trên 20%.
Tiềm năng vẫn còn rất lớn
Do chủ yếu xuất khẩu tươi, thô chính là “gót chân asin” của trái cây Việt Nam hiện nay. Hạn chế này không chỉ khiến trái cây của chúng ta chưa phát huy được tối đa giá trị, hiệu quả kinh tế vốn có mà còn tạo ra áp lực mùa vụ đối với nông dân. Lúc thu hoạch rộ (chính vụ) thì giá giảm mạnh và ngược lại.
Thêm nữa, đối với trái cây tươi, thô sẽ phải đáp ứng các rào cản kỹ thuật về kiểm dịch thực vật, khử trùng, chiếu xạ rất gắt gao từ hầu hết các quốc gia nhập khẩu.
ThS Nguyễn Thanh Tùng, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Hiệp hội Rau quả Việt Nam, chia sẻ: Việt Nam xuất khẩu rau quả đi hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Các thị trường lớn gồm: Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản… Nhu cầu của các thị trường quốc tế rất lớn về khối lượng và đa dạng về các loại rau củ, trái cây có nguồn gốc của Việt Nam.
Ví dụ: Trung Quốc nhập sầu riêng, thanh long, chuối, mít, xoài, vải, nhãn… Mỹ nhập dưa bao tử, thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, vú sữa, bưởi, dừa…
Theo ThS Nguyễn Thanh Tùng, Việt Nam với lợi thế có 7 vùng sinh thái, nên rất thuận lợi cho việc phát triển, trồng các loại rau quả và trái cây.
Tiềm năng, dư địa để Việt Nam xuất khẩu rau quả và trái cây sang các nước còn rất lớn. Tuy nhiên, các nước nhập khẩu rau quả có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm.
Do đó, để tiếp tục chinh phục, mở rộng được thị trường xuất khẩu, tiêu thụ, rau củ, trái cây Việt Nam cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế với các chứng nhận: GlobalGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt toàn cầu), HACCP (hệ thống xác định, đánh giá và kiểm soát các mối nguy đối với an toàn thực phẩm), SGS ( dịch vụ kiểm định, xác minh, thử nghiệm và chứng nhận chất lượng sản phẩm đạt các tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn hàng đầu thế giới)…
Như vậy, để tiến tới “ngôi vương” và chinh phục đỉnh cao mới, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng giá trị, hiệu quả kinh tế, đặc biệt đạt kim ngạch 10 tỷ USD trong thời gian tới, trái cây Việt Nam cần phải được đẩy mạnh đầu tư vào chế biến thay vì chủ yếu xuất khẩu thô như hiện nay.
Đồng thời, việc tiếp tục đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi chính đáng từ thị trường quốc tế thông qua các giấy chứng nhận: GlobalGAP, HACCP, SGS, chiếu xạ (dùng tia Gamma, chùm tia Electron, tia X để tiêu diệt, vô hiệu hóa các vi khuẩn, vi sinh vật, ký sinh trùng, côn trùng có hại trong thực phẩm)…
Các quy định về kiểm dịch thực vật, mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói và chế biến, đáp ứng được yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Việc này không chỉ giúp tăng cường uy tín và cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế mà còn tạo ra môi trường kinh doanh bền vững trong lĩnh vực xuất khẩu trái cây của Việt Nam.
Bài, ảnh: HÀ VĨNH THÁI
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin