Từ tinh thần “khoán 10” trong khoa học- công nghệ (KH-CN) mà Nghị quyết số 57-NQ/TW khơi dậy, tỉnh Vĩnh Long đã sớm ban hành Chương trình hành động số 69, xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu và nhóm giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn.
Sự kết hợp đồng bộ giữa chiến lược ở tầm vĩ mô và hành động cụ thể ở địa phương đang tạo xung lực mới, giúp Vĩnh Long khai thác hiệu quả tiềm năng sau hợp nhất, nâng cao năng lực cạnh tranh và hướng tới mục tiêu kinh tế số chiếm 50% GRDP vào năm 2045, góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển.
Kỳ 1: Vĩnh Long quyết tâm nhập cuộc mạnh mẽ
![]() |
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng, thúc đẩy khoa học- công nghệ phát triển. |
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị được ví như “khoán 10” trong lĩnh vực KH-CN, mở ra tầm nhìn chiến lược đưa đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (CĐS) trở thành động lực trung tâm phát triển đất nước. Từ diễn đàn toàn quốc với sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm đến những bước đi cụ thể ở Vĩnh Long, quyết tâm ấy đang được hiện thực hóa bằng chương trình hành động rõ ràng, mục tiêu dài hạn và loạt giải pháp đột phá, hướng tới một nền kinh tế số hiện đại, bền vững.
Tầm nhìn đột phá từ Nghị quyết số 57
Tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS, đầu năm 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm- Trưởng BCĐ Trung ương nhấn mạnh, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đưa ra định hướng chiến lược, được ví như “khoán 10” trong KH-CN, nhận được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên, giới khoa học và cộng đồng doanh nghiệp, thể hiện khát vọng và quyết tâm vươn lên của dân tộc.
Tổng Bí thư khẳng định, Đảng và Nhà nước luôn xem KH-CN là yếu tố quyết định, nền tảng phát triển bền vững. Quan điểm xuyên suốt là đầu tư vào KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS là chiến lược lâu dài, chấp nhận rủi ro, coi dữ liệu là “không khí và ánh sáng” của kỷ nguyên mới, đổi mới sáng tạo là “cây gậy thần” để đạt thịnh vượng bền vững, với nhà khoa học giữ vai trò trung tâm.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS, đạt nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, nghị quyết cũng đã xác định: “Tốc độ và sự bứt phá về phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ KH-CN và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về CĐS chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng KH-CN, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức”.
Chính vì lẽ đó, đất nước cần quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược để tạo xung lực mới, đột phá phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS, hướng tới mục tiêu năm 2030 thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, và năm 2045 thành nước phát triển, thu nhập cao.
Trọng tâm là hoàn thiện thể chế đi trước một bước, phát triển nhân lực chất lượng cao, hạ tầng và dữ liệu số hiện đại, an toàn; đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính. Ưu tiên đầu tư, từng bước tự chủ công nghệ, đặc biệt công nghệ chiến lược; kết hợp trí tuệ Việt Nam với thành tựu thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng. Bảo đảm chủ quyền không gian mạng, an ninh mạng, an toàn dữ liệu là yêu cầu xuyên suốt.
Hệ thống pháp luật hiện hành cũng đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi về đầu tư, tài chính, phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy các hoạt động KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tại hội nghị toàn quốc đã nêu nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá về thể chế để thúc đẩy phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS. Nghị quyết số 57 có hơn 100 nhiệm vụ, trong đó 16 nhiệm vụ mới như: phát triển công nghiệp trí tuệ nhân tạo, IoT; xây dựng trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây; hạ tầng lưu trữ đạt chuẩn quốc tế; cơ sở dữ liệu lớn; ngành công nghiệp dữ liệu; trường, trung tâm đào tạo AI.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh đổi mới tư duy về vai trò KH-CN, cải cách mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật: luật ngắn gọn, rõ ràng; tăng phân cấp; chuyển từ quản lý thuần túy sang kết hợp quản lý- kiến tạo; bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; quy định khung cho vấn đề chưa ổn định.
Quốc hội sẽ phối hợp Chính phủ rà soát, hoàn thiện pháp luật, giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 57, chuẩn bị Chương trình xây dựng luật năm 2025. Chính phủ, bộ ngành cần đánh giá, sửa đổi, bổ sung, ban hành kịp thời văn bản hướng dẫn; HĐND các cấp chủ động cơ chế, chính sách thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, CĐS và giám sát thực hiện.
Vĩnh Long nhập cuộc mạnh mẽ
Thực hiện Nghị quyết số 57, Vĩnh Long đã ban hành Chương trình hành động số 69, xác định KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS là đột phá chiến lược. Với sự lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và các cấp, ngành, nhiều kết quả nổi bật đã được ghi nhận: tổng năng suất các nhân tố (TFP) tăng 10% so với giai đoạn 2011-2015; nhiều sản phẩm OCOP được nâng hạng; 3 trụ cột chính quyền số- kinh tế số- xã hội số từng bước hình thành; nền tảng số dùng chung được triển khai; 2 năm liên tiếp, THVL được Bộ Thông tin- TT công nhận đạt mức “xuất sắc” trong bảng xếp hạng mức độ trưởng thành CĐS báo chí.
Những kết quả bước đầu này tạo nền tảng quan trọng để địa phương hướng tới các mục tiêu lớn hơn. Theo GS.TS Sử Đình Thành- Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 57 đặt ra tầm nhìn đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, kinh tế số chiếm tối thiểu 50% GDP, thuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo.
Để đạt được mục tiêu đó, các địa phương, trong đó có ĐBSCL, phải cụ thể hóa thành chương trình hành động phù hợp, tập trung vào 7 nhóm nhiệm vụ: nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp và tăng cường hợp tác quốc tế.
Tuy vậy, thực tiễn triển khai tại Vĩnh Long vẫn đối mặt không ít thách thức: tốc độ bứt phá chưa mạnh, quy mô còn nhỏ; nghiên cứu- ứng dụng KH-CN chưa có bước đột phá lớn; hạ tầng công nghệ thiếu đồng bộ; nhận thức ở một số cơ quan, đơn vị chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu đến từ cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn chế và nhân lực chất lượng cao còn thiếu.
Để khắc phục hạn chế, Vĩnh Long đặt ra các mục tiêu rõ ràng: đến năm 2030, hạ tầng số tiên tiến, phủ sóng 5G, 6G; hoàn thiện cấp độ 1 đô thị thông minh; 80% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến; kinh tế số chiếm 30% GRDP; R&D đạt 2% GDP; 100% doanh nghiệp lớn và 40% doanh nghiệp nhỏ ứng dụng công nghệ cao.
![]() |
Nhiều hội thảo, tọa đàm được các trường ĐH tổ chức nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57 tại đơn vị, địa phương. |
Đến năm 2045, kinh tế số chiếm 50% GRDP, chính quyền số minh bạch, hiệu quả, phục vụ nhanh chóng.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh- Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy cho biết, tỉnh đã xác định 7 nhiệm vụ trọng tâm, 8 mục tiêu lớn, 43 chỉ tiêu cụ thể và 17 nhóm giải pháp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57. Ngành Thông tin và Truyền thông là cơ quan thường trực BCĐ, tham mưu ngân sách cho CĐS và đặt hàng các trường ĐH nghiên cứu, gắn kết Nhà nước- nhà trường- doanh nghiệp.
Khẳng định quyết tâm này, ông Lữ Quang Ngời- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, trong thời gian tới Vĩnh Long sẽ cải cách mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, tận dụng cơ hội từ Cách mạng công nghiệp 4.0, thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Trong đó, ưu tiên CĐS ở nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, du lịch, giáo dục và y tế; đồng thời đầu tư hạ tầng đồng bộ, nhất là giao thông kết nối liên vùng, để thu hút đầu tư và thúc đẩy thương mại.
Những năm qua, tiềm lực KH-CN, đổi mới sáng tạo và CĐS của tỉnh Vĩnh Long được quan tâm đầu tư, nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và hội nhập quốc tế. Cán bộ nghiên cứu đạt 18,7 người/vạn dân. Đến tháng 8/2024, chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh đạt 0.725. Nhiều sản phẩm OCOP được nâng hạng 4 sao, 5 sao; triển khai chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông nghiệp; tỷ lệ đóng góp của TFP (năng suất nhân tố tổng hợp) trong tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 ước đạt 49%, tăng 10% so với giai đoạn 2011-2015. |
Bài, ảnh: CAO HUYỀN
(Còn tiếp)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin