Khí tượng thủy văn thay đổi nhanh trong hơn 30 năm qua

11:11, 21/03/2025

Ngày 24/2/2025, UBND tỉnh phê duyệt kết quả dự án “Đánh giá tác động, tính dễ bị tổn thương, rủi ro, tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long”. Báo cáo dự án đã nêu lên sự biến đổi cùng với tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu, khí tượng thủy văn đến các lĩnh vực kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh trong hơn 30 năm qua (1992-2023), đồng thời nhận định xu thế trong thời gian tới.

Các loại hình khí hậu, thời tiết cực đoan gây ra mưa lớn, lốc xoáy làm thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Nhân dân. Ảnh tư liệu: Thiệt hại do lốc xoáy vào tháng 5/2022 tại xã Tân Long, huyện Mang Thít.
 

Các yếu tố khí tượng, khí hậu phần lớn có xu thế tăng

Báo cáo cho thấy, từ năm 1992-2023, các yếu tố khí hậu, khí tượng, thủy văn trong tỉnh có sự thay đổi rõ rệt, phần lớn các yếu tố có xu thế tăng; một số yếu tố cực đoan như nhiệt độ tối cao có xu thế giảm, nhưng nhiệt độ tối thấp, lượng mưa và mức nước có xu thế tăng.

Theo đó, tại Trạm khí tượng Vĩnh Long, nhiệt độ trung bình ở giai đoạn 1992-2008 cao hơn trung bình nhiều năm (TBNN) là 0,10C và nhiệt độ ở giai đoạn gần đây (2009-2023) bằng nhiệt độ TBNN. Nhiệt độ trung bình tăng 0,0175 0C/năm ở giai đoạn 1992-2008, nhưng giảm 0,0377 0C/năm ở giai đoạn 2009-2023 và giảm 0,0066 0C/năm ở giai đoạn 1992-2023.

Nhiệt độ tối cao giai đoạn 1992-2023 dao động từ 33,7-36,30C. Giai đoạn 1992-2008, nhiệt độ tối cao trung bình cao hơn TBNN là 0,20C, giai đoạn 2009-2023 nhiệt độ tối cao lại thấp hơn TBNN là 0,20C. Xu thế nhiệt độ tối cao trung bình tăng 0,0293 0C/năm ở giai đoạn 1992-2008, nhưng giảm 0,0147 0C/năm ở giai đoạn 2009-2023 và giảm 0,0141 0C/năm ở giai đoạn 1992-2023.

Tổng lượng mưa trung bình năm của toàn tỉnh khoảng 1.513mm. Xu thế lượng mưa trung bình năm ở giai đoạn 1992-2023 tăng 5,229mm/năm, trong đó giai đoạn 1992-2008 tăng 16,876mm/năm, giai đoạn 2009-2023 tăng 10,605mm/năm. Số ngày mưa ở giai đoạn 1992-2008 ít hơn TBNN là 6 ngày; ở giai đoạn 2009-2023 cao hơn TBNN là 6 ngày và số ngày mưa có xu thế tăng 0,8356 ngày/năm ở giai đoạn 1992-2023.

Độ ẩm không khí trung bình tại Vĩnh Long vào khoảng 82%, có xu thế tăng nhưng rất ít 0,0424 %/năm. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình khoảng 2.152 giờ. Giai đoạn 2014-2018 có tổng số giờ nắng thấp hơn TBNN là 64 giờ, giai đoạn 2019-2023 có tổng số giờ nắng cao hơn TBNN là 64 giờ; số giờ nắng tăng khoảng 24,032 giờ/năm.

Mực nước trung bình ở Trạm thủy văn Mỹ Thuận trong hơn 30 năm qua giảm 0,4327 cm/năm, mực nước thấp nhất cũng giảm 1,377 cm/năm, nhưng mực nước cao nhất tăng 1,6516 cm/năm với mực nước cao nhất xuất hiện vào năm 2022 là 2,17m.

Báo cáo còn cho thấy, ngày càng có nhiều loại hình khí hậu, thời tiết, thiên tai cực đoan xảy ra thường xuyên và phức tạp hơn, bao gồm nắng nóng, mưa lớn, giông lốc xoáy, sạt lở bờ sông, kênh, rạch, hạn hán và xâm nhập mặn. Những hiện tượng này không chỉ gây thiệt hại lớn về kết cấu hạ tầng, nông nghiệp và tài sản của người dân mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh kế và phát triển kinh tế của địa phương. Trong đó, sạt lở bờ sông và xâm nhập mặn là những thách thức lớn đối với hệ thống canh tác nông nghiệp và nguồn nước ngọt, vốn là những yếu tố cốt lõi của tỉnh.

Thống kê trong giai đoạn năm 2019-2023, tổn thất, thiệt hại kinh tế trung bình hàng năm do thiên tai trên địa bàn tỉnh là 161,406 tỷ đồng, chiếm 0,4% so với GRDP của tỉnh (40.446 tỷ đồng). Tổn thất, thiệt hại chủ yếu là nông nghiệp đặc biệt là cây ăn trái và lúa. Thiệt hại về công trình do triều cường và sạt lở cũng rất đáng kể.

Hạn hán và xâm nhập mặn gây ra tổn thất, thiệt hại về kinh tế cũng như phi kinh tế là rất lớn. Tuy nhiên, thiệt hại đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế- xã hội (như du lịch, hệ thống xã hội, hệ thống tự nhiên) có mức độ tổn thương vừa phải. Riêng các lĩnh vực xây dựng, hạ tầng kỹ thuật (quy hoạch và phát triển đô thị, hạ tầng giao thông, cấp thoát nước,…) và ngành công thương (công nghiệp, năng lượng, thương mại và dịch vụ) lại có tính dễ bị tổn thương ở mức tương đối lớn.

Dự báo còn diễn biến phức tạp

Trong thời gian tới, với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, các yếu tố về khí hậu, khí tượng, thủy văn trong tỉnh được dự báo sẽ tiếp tục biến đổi theo xu thế phức tạp hơn, có thể làm xuất hiện các loại hình khí hậu, thiên tai, thời tiết cực đoan mới trái với quy luật.

Kết quả tính toán ở 2 kịch bản biến đổi khí hậu ở tỉnh Vĩnh Long (kịch bản nồng độ khí nhà kính cao RCP8.5 và kịch bản nồng độ khí nhà kính trung bình thấp RCP4.5) trong báo cáo còn cho thấy, nhiệt độ có xu hướng tăng dần trong tương lai. Cụ thể, vào năm 2030, nhiệt độ tăng từ 0,8-10C; đến năm 2050, nhiệt độ tăng từ 1,3-1,70C. Về phân bố không gian, mức độ biến đổi của nhiệt độ có xu hướng tăng cao ở khu vực TP Vĩnh Long, huyện Long Hồ, Mang Thít, nhưng tăng thấp hơn tại Trà Ôn và TX Bình Minh.

Lượng mưa cũng có xu hướng tăng cả trong mùa khô, mùa mưa và trung bình năm, nhưng tăng cao nhất là lượng mưa mùa khô. Ở 2 kịch bản RCP4.5 và RCP8.5: lượng mưa trung bình năm 2025 tăng lần lượt là 10,7-11,6% (trong đó mùa mưa tăng lần lượt là 6,7-7,9%, mùa khô tăng lần lượt 33,6-39%). Đến năm 2030, lượng mưa năm tăng lên từ 11,2-13% (trong đó mùa mưa tăng từ 8,2-11,2%, mùa khô tăng 35,4-37%). Đến năm 2050, lượng mưa năm tăng lên lần lượt 13,4-16,5% (trong đó mùa mưa tăng 9,6-14% và mùa khô tăng 21-42%) ở 2 kịch bản.

Về nước dâng (trên sông Tiền), theo kịch bản RCP4.5, những thập kỷ đầu đến gần giữa thế kỷ XXI (2030, 2040), mực nước dâng trung bình không thay đổi so với hiện trạng. Từ 2050 trở đi, mực nước dâng trung bình tăng từ 0,9-8,9cm. Đến năm 2050, mực nước dâng trung bình là 22,3cm (khoảng dao động từ 13,5-32,6cm). Đến cuối thế kỷ XXI, mực nước dâng trung bình là 52,9cm (khoảng dao động 31,8-77,2cm).

Theo kịch bản khí nhà kính RCP8.5, đây là kịch bản có mực nước biển dâng cao nhất trong số các kịch bản. Vào đầu thế kỷ XXI (2030), mực nước dâng trung bình là 9,55cm. Đến giữa thế kỷ XXI (2050), mực nước dâng 24,5cm. Đến cuối thế kỷ XXI, mực nước dâng 73,2cm (khoảng dao động 48-105cm).

Dự tính, tổn thất, thiệt hại kinh tế từ năm 2023-2025 là vào khoảng 253,505 tỷ đồng/năm, tổng thiệt hại từ năm 2023-2030 khoảng 537,978 tỷ đồng/năm, từ năm 2023-2040 là vào khoảng 2.422,820 tỷ đồng/năm.

Trên cơ sở đó, báo cáo đề xuất, để phát triển bền vững và giảm thiểu rủi ro thiệt hại do biến đổi khí hậu, tỉnh Vĩnh Long cần đặc biệt chú trọng công tác phòng chống thiên tai. Cụ thể như cơ cấu, tổ chức, kiện toàn lực lượng làm công tác phòng chống thiên tai theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; đầu tư phương tiện, trang thiết bị phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tiên tiến, hiện đại.

Phấn đấu 100% cơ quan chính quyền các cấp, tổ chức, đoàn thể và hộ gia đình được tiếp nhận đầy đủ thông tin và hiểu biết về kỹ năng phòng tránh thiên tai; lực lượng làm công tác phòng chống thiên tai được đào tạo, tập huấn bài bản, trang bị đầy đủ kiến thức và trang thiết bị cần thiết; 100% tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đảm bảo các yêu cầu theo phương châm “4 tại chỗ”… và phấn đấu giảm thiệt hại do thiên tai gây ra dưới 1,2% GRDP của toàn tỉnh.

Bài, ảnh: TRUNG CHÁNH

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh