Đồng bào Khmer vùng ĐBSCL nói chung, tỉnh Vĩnh Long nói riêng đến nay vẫn còn bảo tồn và lưu truyền nhiều lễ nghi theo tín ngưỡng dân gian.
Miếu thờ Ông Tà tại chùa Phù Ly 1 (xã Đông Bình, TX Bình Minh). |
Đồng bào Khmer vùng ĐBSCL nói chung, tỉnh Vĩnh Long nói riêng đến nay vẫn còn bảo tồn và lưu truyền nhiều lễ nghi theo tín ngưỡng dân gian.
Bởi phần đông đồng bào Khmer lấy nghề nông làm kinh tế chủ đạo, mà trong đó trồng lúa nước là nghề chính, cho nên từ trong tâm thức, quan niệm của đồng bào Khmer từ lâu đã xem trời, đất, mặt trăng, trong đó có Neak-Tà… là những lực lượng siêu nhiên đầy quyền năng có thể che chở, bảo hộ, ban lại phước lành cho mọi người trong đời sống, lao động, sản xuất. Vì lẽ đó, hàng năm đồng bào Khmer thường tổ chức lễ cúng Neak-Tà để cầu an, xin mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu.
“Người Khmer Cửu Long” của Viện Văn hóa, được xuất bản năm 1987 có viết, “Neak” thực ra chỉ con người nói chung, còn “Tà” là người đàn ông đứng tuổi, cho nên đồng bào Khmer quen gọi Neak-Tà là Ông Tà. Qua nghiên cứu các tài liệu, ta thấy hình tượng Ông Tà của đồng bào Khmer có điểm khá tương đồng với hình tượng Thần Thành Hoàng.
Thần Thành Hoàng được phân chia ra 2 nhóm, nhóm Nhiên Thần và nhóm Nhân Thần. Ông Tà của đồng bào Khmer cũng được phân thành hai nhóm chính. Đó là Ông Tà được gọi theo tên một vật tiêu biểu trong thiên nhiên, hoặc tên của một loại thực vật (xam rôn, đom chey là cây trôm và cây đa), hoặc mang tên một đặc điểm địa lý như núi sông (Neak-Tà bến đò, Neak-Tà giếng, Neak-Tà bến Bình An…).
Nhóm Ông Tà thứ 2 có liên quan đến người hoặc mang tên người như: Neak- Tà Kơhom Co (cổ đỏ), Neak-Tà Xòm đạch (lưỡi trắng), Neak-Tà Taxây ao Bà Om. Ngoài ra, còn có một số Neak-Tà chưa thể xếp loại như: Neak-Tà Ok, Neak-Tà Rumpotmia do sự tích chưa rõ ràng.
Các tài liệu thư tịch khác như Monod (1931) cho Neak-Tà là các vị thần đồng áng hay thần ở trong rừng mà người ta phải cầu xin khi có công việc liên quan đến khu vực này.
Moura (1883) cho rằng Neak-Tà là những vị thần các cánh đồng hay khu vực mà người ta cầu xin khi có công việc và ông còn cho Neak-Tà có nguồn gốc Bà La môn giáo; ông đặt các vị thần này trong vũ trụ quan của tôn giáo đó, nghĩa là những Neak-Tà đó có từ khi các xứ sở được thành lập và chính Preah In (Indra) đã giao cho họ công việc trông coi các xứ sở này.
Quan niệm Neak-Tà có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo cũng được L.Malleret (1946) tán thành và lấy vị thần Neang Khmau (Bà Đen) trong tín ngưỡng của đồng bào Khmer làm ví dụ, ông cho rằng đây là thần Burga của Bà La Môn giáo.
Sau nhận định của các tác giả, tác phẩm “Người Khmer Cửu Long” của Viện Văn hóa khẳng định dù được tượng trưng bằng tên gì, hoặc không có tên thì Neak-Tà cũng đều là “thần”. Những quan niệm về Neak-Tà tuy có nhiều chỗ khác nhau, nhưng đều cho chúng ta một quan niệm chung thống nhất “Neak-Tà là thần bảo hộ” được đồng bào Khmer suy tôn qua giá trị thực tiễn trong đời sống.
Đến tham quan chùa Phù Ly 1, ấp Phù Ly (xã Đông Bình, TX Bình Minh), dẫn tôi ra phía sau khuôn viên chùa có ngôi miếu thờ Ông Tà, Sư phó chùa Phù Ly 1- Đào Sâm Niên cho biết, tục thờ Ông Tà còn có một nguồn gốc khác, đó là thời xa xưa, trong một gia đình nọ có 3 người, người mẹ mất sớm, còn lại người cha và người con.
Một hôm nọ, người cha lên núi ngồi thiềng, ở nhà người con không biết cha đi đâu và đi tìm mãi không thấy cha mình. Khi người con tìm gặp thì người cha đã qua đời. Người con tiếc thương, làm lễ an táng cha mình tại núi nọ và lấy một viên đá để thờ, tượng trưng cho cha mình. Từ lẽ đó, tín ngưỡng thờ Ông Tà hình thành.
Hiện nay, đi vào các địa phương có đông đồng bào Khmer sinh sống, chúng ta nhận thấy có những ngôi miếu thờ Ông Tà. Trong ngôi miếu có ít nhất là một viên đá tròn, nhẵn, theo Sư Đào Sâm Niên đó là hình tượng cho người cha, còn ngôi miếu bên cạnh viên đá tròn lớn, xung quanh có 2 viên đá tròn nhỏ hơn tượng trưng cho người mẹ và người con trong gia đình.
Ngoài ra, chúng ta cũng bắt gặp những ngôi miếu thờ nhiều hơn 3 viên đá tròn, tức là nơi đó xem hình tượng Ông Tà còn đại diện cho các vị thần khác như: Thần núi, Thần lửa, Thần sông, Thần gió…
Miếu thờ Ông Tà được người dân làm từ tranh, tre, nhà sàn hoặc nhà đất, làm dưới gốc cây trong khuôn viên phum hay dựng ở gốc ruộng. Ngày nay kinh tế đồng bào Khmer ngày càng khấm khá, nên miếu thờ Ông Tà cũng được làm kiên cố hơn, vách nền làm bằng xi măng, mái lợp tôn. Trong miếu có để vài hòn đá to và nhiều hòn đá nhỏ hình bầu dục, mặt nhẵn bóng, có lư hương để phật tử và người dân đến thắp hương, cúng vái.
Sư Đào Sâm Niên, Sư Phó chùa Phù Ly 1 cho biết thêm, đồng bào Khmer thường tổ chức lễ cúng Ông Tà vào tháng 4 dương lịch hàng năm. Vì tháng này là thời điểm giao mùa giữa mùa nắng với mùa mưa, đây cũng là thời điểm đồng bào Khmer tổ chức đón Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay và chuẩn bị cho vụ mùa mới, do vậy đồng bào Khmer tổ chức lễ cúng Ông Tà nhằm cầu mong Ông Tà ban cho mưa thuận gió hòa, có nhiều nước để vụ mùa bội thu.
Tùy vào điều kiện kinh tế của gia đình, địa phương mà vật phẩm cúng Ông Tà có thể là thịt heo, gà, vịt hoặc kẹo, sữa, bánh, trái cây… Bên cạnh cầu mưa thuận gió hòa, lúa được trúng mùa, đồng bào Khmer khi có vấn đề khó khăn trong cuộc sống hay cầu mong điều gì cũng đến miếu Ông Tà cúng viếng.
Người không có con đến cầu có con, người mua bán thì cầu mua may bán đắt, còn người trước khi đi làm ăn xa cũng đến cúng Ông Tà cầu thượng lộ bình an, thuận buồm xuôi gió; hoặc giả hai người nào đó bất đồng quan điểm xảy ra mâu thuẫn cũng kéo đến trước miếu, nhờ Ông Tà làm quan tòa phân xử.
Ngày nay, điều kiện kinh tế phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, hiện đại, trình độ dân trí người dân được nâng cao đã từng bước lý giải được những hiện tượng siêu nhiên từ thiên nhiên. Song tín ngưỡng thờ Ông Tà của người Khmer vẫn tồn tại đến ngày nay, như truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tốt đẹp trong cộng đồng, bên cạnh đó còn thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, giá trị nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Bài, ảnh: MINH TRIẾT
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin