Cá lóc là loài cá ăn tạp, dễ nuôi, ít bệnh tật. Bên cạnh đó, loài cá này có thịt thơm ngon nên được chị em nội trợ cực kỳ ưa chuộng.
Cá lóc là loài cá ăn tạp, dễ nuôi, ít bệnh tật. Bên cạnh đó, loài cá này có thịt thơm ngon nên được chị em nội trợ cực kỳ ưa chuộng.
Công dụng của các lóc
Cá lóc còn có tên là cá tràu, cá chuối, cá quả, cá hoa, cá sộp…, đây là giống cá nước ngọt, sinh sống tự nhiên ngoài sông suối, đồng ruộng, ao hồ, kênh rạch.
Vốn là món ăn quen thuộc trong bữa cơm gia đình Việt, cá lóc thường được chế biến thành các món đa dạng và rất ngon cơm như kho, nấu, hầm, chiên nướng, làm ruốc cá, cá hấp…
Cá lóc là một trong những món ăn được yêu thích, chủ yếu được dùng làm thực phẩm, làm thuốc đông y và chữa bệnh. |
Theo Đông y, cá lóc có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng bổ khí huyết, gân xương, trừ đàm (dùng tốt cho những trường hợp bị các bệnh phổi), chữa ít sữa cho sản phụ, bồi bổ người mới khỏi bệnh vì dễ hấp thu.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, 100g cá lóc chứa khoảng 100 calo với 18,2 gram đạm, 1,1 gram tro, 90 mg canxi, 77,7 gram nước, 2,7 gram chất béo, 240 mg phốt pho, 2,3 gram vitamin PP, 100 mcg vitamin B2.
Ngoài ra, trong cá lóc còn chứa nhiều dưỡng chất khác như vitamin A, omega 3, omega 6, glycine, lysine, araginine, axit arachidonic, axit plamitic, axit docosahexaenoic…
Cá lóc còn chứa nhiều canxi, vitamin và các nguyên tố vi khoáng giúp cơ thể khỏe mạnh, tăng trưởng chiều cao, kích thích chuyển đổi, hạn chế tích tụ calo, ngăn ngừa mỡ thừa và giảm đau xương khớp hiệu quả.
Dưới góc nhìn của dinh dưỡng, cá lóc đóng vai trò là thực phẩm chức năng, mang lại lợi ích sức khỏe
Ngoài ra, ăn cá lóc có thể hỗ trợ giảm cân rất tốt bởi 100g cá lóc chỉ chứa khoảng 97 calo, thấp hơn khá nhiều so với các loại thực phẩm khác. Trong khi mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2.000 calo nên bạn có thể ăn cá lóc thoải mái mà không sợ tăng cân.
Theo y học hiện đại thì cá lóc chứa nhiều albumin giúp giảm sưng, duy trì cân bằng chất lỏng trong cơ thể, dự trữ dinh dưỡng, hormone, khắc phục thiệt hại do mô, tăng áp suất thẩm thấu máu, chữa lành vết thương. Tuy nhiên, bạn chỉ nên ăn cá lóc ở một giới hạn nhất định.
Theo lương y Bùi Hồng Minh, với những đặc tính chữa bệnh tuyệt vời, từ xa xưa, cá lóc đã được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh trong Đông y. Những bài thuốc chữa bệnh từ cá quả mà bạn có thể sử dụng như món ăn hàng ngày.
Nuôi cá lóc cần lưu ý điều gì?
Theo các kỹ sư nông nghiệp, trong những năm trở lại đây ở Việt Nam có nhiều nơi đã tiến hành nuôi cá lóc nhất là ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ... Loài cá này sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh rạch, ao hồ, đầm, sông và thích nghi được cả với môi trường nước đục, tù, nước lợ (10-12%). Đây là ưu thế để phát triển mô hình nuôi thâm canh trong ao, bể xi măng, lồng. Cá lóc là loài ăn tạp, thức ăn thiên về động vật và có tốc độ tăng trưởng nhanh. Cá lóc có thịt thơm ngon nên được thị trường vô cùng ưa chuộng.
Theo kinh nghiệm của chủ trang trại nuôi cá lóc thì đây là loài cá ăn mạnh và mùa hè và ăn ít vào mùa đông. Vì vậy, cá tăng trưởng vào mùa hè nhanh hơn so với các mùa khác và sinh trưởng chậm ở nhiệt độ dưới 20 độ C.
Thông tin từ De Heus, cá lóc thích sống vùng nước đục, nhiều rong cỏ. Có thể sống ở các khu vực nước chảy hay các ao tù do có cơ quan hô hấp phụ. Đây là loài cá dữ, ăn động vật như: cá, tôm, nòng nọc, côn trùng… Cá lóc có thể đẻ 5 lần/năm khi đạt 1 - 2 tuổi. Mùa vụ sinh sản từ tháng 4 - 8 nhưng tập trung vào tháng 4 - 5.
Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất
Chọn ao và chuẩn bị ao nuôi: Diện tích trung bình từ 500m2 - 1000m2. Độ sâu mực nước từ 1,2m - 1,5m. Đáy ao nghiêng về cống thoát nước để đảm bảo thoát hết nước trong ao. Bờ ao chắc chắn, không rò rỉ. Đỉnh bờ ao cao hơn mực nước từ 0,5m - 0,7m. Xung quanh ao có lưới bao cao khoảng 0,5m. Có hệ thống cấp và thoát nước. Tát cạn ao, vét bùn đáy, diệt cá tạp. Xử lý vôi CaCO3 từ 7 - 10kg/100m2. Phơi ao từ 2 - 3 ngày. Cấp nước vào ao qua lưới lọc, diệt khuẩn môi trường nước, bón phân gây màu nước. Sau 3 - 5 ngày khi nước có màu xanh đọt chuối thì thả giống.
Thả cá giống: Chọn cá giống khỏe, kích cỡ đồng đều, bơi lội nhanh nhẹn, không dị tật hay xây xát. Kích cỡ cá thả từ 300 - 1.000 con/kg. Mật độ thả 10 - 20 con/m2, có thể thả mật độ cao 30 con/m2. Trong khi vận chuyển, cần hạ thấp nhiệt độ để hạn chế tỉ lệ hao hụt. Trước khi thả cần xử lý muối ăn NaCl 2% (2kg muối ăn/100 lít nước) trong 2 - 3 phút để diệt ký sinh, sát khuẩn cá và loại bỏ cá yếu, cá bị xây xát. Để bao cá xuống nước ao từ 15 - 20 phút mới thả cá ra bên ngoài nhằm để cá thích nghi dần nhiệt độ. Thả cá vào buổi sáng hay chiều mát.
Chăm sóc và quản lý ao nuôi: Có rất nhiều loại thức ăn cho các lóc mà người nuôi có thể sử dụng, tùy vào từng giai đoạn phát triển của cá mà lựa chọn loại thức ăn phù hợp. Thường xuyên kiểm tra sức khỏe của cá, theo dõi nhu cầu thức ăn tránh cho ăn quá nhiều hay quá ít. Thay nước hàng ngày khoảng 30% đối với cá lớn, cá nhỏ sau 2 - 3 ngày thì thay nước 1 lần. Định kỳ bổ sung các loại vitamin, khoáng, men tiêu hóa 10 - 15 ngày/lần nhằm tăng sức đề kháng với mầm bệnh, giảm stress, hấp thu thức ăn tốt hơn và cá đồng cỡ hơn. Sát khuẩn môi trường nước thường xuyên 7 - 10 ngày/lần trong mùa có dịch bệnh hay từ 12 - 15 ngày/lần trong điều kiện bình thường.
Cá lóc được chế biến thành nhiều món ăn ngon. |
Kỹ thuật nuôi cá lóc trên bể lót bạt
Mô hình nuôi cá lóc trên bể lót bạt giống với nuôi cá lóc trong ao đất nhưng có vài đặc điểm khác như sau:
Vị trí đặt bể: gần sông, ao, hồ… nơi thuận tiện cho việc thay nước.
Chi phí lắp bể thấp, dễ làm, tận dụng những nơi trống xung quanh nhà và có thể chuyển đổi qua nuôi các đối tượng khác. Bể xây dựng theo hình chữ nhật, cao 1,2m. Dùng các cây trụ cắm xung quanh, rào bằng bố tre hay đắp đất xung quanh. Trải bạt dưới đáy, rào lưới quanh bể tránh cá nhảy ra ngoài. Đáy bể nghiêng về phía thoát nước, đặt cống thoát sát đáy bể nhằm xả hết chất bẩn và có lưới lọc để tránh cá thất thoát. Mực nước trong bể từ 0,8m - 1m. Có máy bơm nước để việc cấp nước được dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Môi trường dễ bị nhiễm bẩn do nuôi mật độ cao(>100 con/m2) do đó cần thay nước hàng ngày từ 70 - 100%. Tỷ lệ hao hụt cao (khoảng 40%) so với nuôi trong ao đất vì môi trường biến động lớn, mật độ cao và bệnh dễ lây lan.
Theo N.A/ Dân Việt
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin