Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ- người cộng sản mẫu mực, trung kiên

01:07, 10/07/2022

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912, quê ở thôn Cẩm Giàng, Đồng Nguyên, Từ Sơn- Bắc Ninh. Ông là hậu duệ của Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm ngay tại quê hương mình.

 

Chân dung Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ.
Chân dung Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ.

(VLO) Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912, quê ở thôn Cẩm Giàng, Đồng Nguyên, Từ Sơn- Bắc Ninh. Ông là hậu duệ của Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm ngay tại quê hương mình.

Một cuộc đời hoạt động cách mạng sống động

Tại Sài Gòn- Gia Định, trong nhiều năm liền, Trung ương Đảng đã đứng chân hoạt động trong những tình huống nguy hiểm, gian khổ nhất và chỉ đạo nhiều vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Trong đó, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, với 29 tuổi đời, hơn 13 năm hoạt động cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, 2 năm làm Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí đã để lại cho Đảng ta một tấm gương sáng về tinh thần đấu tranh cách mạng của một người lãnh đạo tài năng với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Đầu năm 1928, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hà Nội. Năm 1930, ông được cử làm Bí thư đầu tiên đặc khu Hòn Gai- Uông Bí. Sau đó, ông bị địch bắt, kết án khổ sai đày ra Côn Đảo.

Trong nhà tù, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, cùng các đồng chí bạn tù vẫn tranh thủ học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, viết báo và trở thành một cán bộ lý luận xuất sắc trong lao tù Côn Đảo.

Năm 1936, khi phong trào Bình dân ở Pháp phát triển rộng, có hiệu quả sang cả Đông Dương, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được trả tự do, năm 1937 được cử vào BCH Trung ương Đảng.

Năm 1938 (khi mới 26 tuổi), với cương vị là Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng, đồng chí đã lăn lộn trong nhiều phong trào, mà lúc này Đảng ta phải hoạt động trong tình thế luôn bị kẻ thù bao vây.

Sau khi phong trào Bình dân ở Pháp bị đàn áp, Chủ nghĩa thực dân Pháp trỗi dậy, thẳng tay đàn áp cách mạng các nước thuộc địa, trong đó có cách mạng Đông Dương và Việt Nam.

Lúc này, là Tổng Bí thư trẻ nhất trong lịch sử của Đảng ta, đồng chí đã chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa I) để chấn chỉnh, đề ra những vấn đề quan trọng của Đảng ta.

Hội nghị được tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Môn, tỉnh Gia Định) trong 3 ngày 6, 7 và 8/11/1939. Dự hội nghị có các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn,... Hội nghị đã phân tích tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ II, về tình hình Đông Dương, phân tích rõ thái độ từng giai cấp trong xã hội, xu hướng chính trị của các đảng phái, tôn giáo.

Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, dựa trên cơ sở liên minh công- nông là “Hai lực lượng chính của cách mạng”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong tình hình mới.

Dấu ấn từ những quyết sách quan trọng

Là nhà lãnh đạo trẻ tuổi và cao nhất của Đảng trong một giai đoạn cực kỳ phức tạp và gian khó, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có những đóng góp quyết định trong việc vạch ra chiến thuật và chiến lược của cách mạng Việt Nam, để đưa phong trào đấu tranh của dân tộc lên một tầm cao mới vào những năm sau đó, sau thời kỳ thực dân Pháp bước vào giai đoạn khủng bố toàn diện.

Với khả năng nhạy bén, nắm bắt tình hình trong nước và ngoài nước nhanh chóng, cùng với trình độ lý luận chính trị xuất sắc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo thay đổi chiến lược cách mạng, tạo ra bước ngoặt quan trọng- giai đoạn cách mạng những năm 1938- 1942, giai đoạn cuộc chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ.

Nhận thấy tình hình quốc tế đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam và Đông Dương, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã sớm đặt vấn đề chuyển hướng chiến lược của Đảng; chỉ đạo cho phát hành cuốn “Công tác bí mật của Đảng” kịp thời gửi tới Đảng bộ các cấp; trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị mở rộng Xứ ủy Bắc Kỳ, đã có những tác dụng cụ thể trong Đảng ta.

Chỉ 2 tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, đồng chí đã triệu tập Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6, hội nghị đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động công khai và bán công khai của Đảng vào bí mật, quyết định khẩu hiệu đấu tranh, hình thức đấu tranh, mục tiêu và lực lượng cách mạng, vấn đề mặt trận và vấn đề Chính phủ sau này, cũng như thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.

Có thể nói, Hội nghị Trung ương 6 đã ghi nhận bước đầu Đảng ta đã trở lại với các quan điểm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu ra thời kỳ thành lập Đảng, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược khi bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế thay đổi nhanh chóng. Điều này thể hiện tư duy chính trị hết sức nhạy bén và năng lực sáng tạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ.

Tác phẩm “Tự chỉ trích” của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Tác phẩm “Tự chỉ trích” của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.

Nhờ có sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng mới. Lực lượng cách mạng cũng tránh được tổn thất to lớn khi kẻ địch trở mặt đàn áp, góp phần đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám lịch sử 1945.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cũng đã sớm hiểu rõ được tầm quan trọng của công tác tự phê bình và phê bình trong xây dựng đội ngũ cách mạng. Với bút danh Trí Cường, tháng 7/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã cho ra mắt cuốn “Tự chỉ trích” để làm sáng tỏ hơn những vấn đề cần bàn bạc xung quanh công tác này.

Ngày 23/11/1940, sau Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, thực dân Pháp đàn áp dữ dội và bắt nhiều lãnh tụ của Đảng ta. Trong đó, chúng đã khép Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ vào tội đã thảo ra “Nghị quyết thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”, “Chủ trương bạo động”, là người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ nên kẻ thù đã kết án tử hình ông. Ngày 28/8/1941, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã anh dũng hy sinh tại trường bắn Ngã Ba Giồng, huyện Hóc Môn (nay là Khu di tích Ngã Ba Giồng, tại Ấp 5 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh).

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng cao đẹp của Đảng và Nhân dân ta để đi tới thắng lợi vĩ đại về sau.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất cao quý của người cộng sản. Phẩm chất cao quý ấy thể hiện ở tinh thần say sưa học tập, rèn luyện và vươn lên không ngừng.

Từ lúc bắt đầu hoạt động cách mạng cho đến khi bị thực dân Pháp xử bắn, dù chưa được học ở trường lớp lý luận nào nhưng bằng niềm tin và nghị lực, đồng chí đã trang bị cho mình những hiểu biết sâu rộng về khoa học chính trị và trở thành lãnh tụ cao nhất của Đảng ta.

Với cuộc đời cách mạng sống động, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã để lại một tấm gương sáng ngời về đạo đức, về lòng tin mãnh liệt ở lý tưởng cách mạng cao đẹp, tình thương yêu, quý mến giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Thạc sĩ PHẠM BÁ NHIỄU

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh