Xuân sang, dương khí bắt đầu thăng phát, vạn vật hân hoan hồi sinh sau những tháng ngày ẩn tàng trong cái rét của mùa đông lạnh giá. Thuận theo tự nhiên, dương khí trong thân thể cũng dần dần vượng thịnh, tinh thần trở nên hào hứng, dân gian tràn ngập tiếng cười.
Xuân sang, dương khí bắt đầu thăng phát, vạn vật hân hoan hồi sinh sau những tháng ngày ẩn tàng trong cái rét của mùa đông lạnh giá. Thuận theo tự nhiên, dương khí trong thân thể cũng dần dần vượng thịnh, tinh thần trở nên hào hứng, dân gian tràn ngập tiếng cười.
Tục ngữ có câu “tiếu nhất tiếu, thập niên thiếu” (một tiếng cười trẻ 10 năm), ý nói: Nếu nụ cười luôn nở trên môi thì người ta có thể trẻ ra và sống lâu hơn.
Đương nhiên, câu nói này không tránh khỏi có phần cường điệu, nhưng cũng chứa đựng trong đó một sự thật hiển nhiên, một chân lý đã được tâm lý học y học hiện đại minh chứng.
Một nhà tản văn đương đại có tiếng của Trung Quốc có viết một cuốn sách nhan đề “Dinh dưỡng cao cấp”, độc giả những tưởng rằng nội dung chủ yếu sẽ chỉ là những vấn đề liên quan đến dinh dưỡng ăn uống, nhưng kỳ thực cuốn sách lại đề cập đến những việc mang đậm tính xã hội muôn màu muôn sắc.
Trong đó, có đoạn đại ý: Con người ta ai cũng có ước mơ trở thành Hoàng đế để được ăn sung mặc sướng và có quyền lực bao trùm thiên hạ, nhưng họ đâu biết rằng đa số các Hoàng đế đều không sống lâu, tuổi trung bình của tất cả các vị vua trong lịch sử Trung Hoa đều không vượt quá con số 40.
Nguyên nhân cũng rất nhiều và cũng rất khác nhau, nhưng có một điểm giống nhau là: Trong khẩu phần “dinh dưỡng” của họ còn thiếu một “chất” mà vàng bạc châu báu không thể mua được, quyền thế nghiêng trời lệch đất cũng không giành được, hàng trăm trò viễn mua vui của các đào kép, nữ tỳ nơi cung cấm cũng không đem lại được.
“Chất” đó chính là nụ cười đích thực và hồn nhiên!
Trong lịch sử của y học cổ truyền phương Đông, tiếng cười đã được các y gia khá coi trọng, vì cười là biểu hiện của niềm vui, mà vui là 1 trong 7 loại tình chí có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và bệnh tật của con người, cổ nhân gọi là thất tình: hỉ (vui), nộ (giận), ưu (lo), tư (nghĩ), bi (buồn), khủng (sợ), kinh (khiếp).
“Nội kinh Tố vấn”- y cổ thư kinh điển của Đông y trong chương Cử thống luận đã viết: “Nộ tắc khí thương, hỉ tắc khí hoãn, bi tắc khí tiêu, khủng tắc khí hạ, kinh tắc khí loạn, tư tắc khí kết”.
Điều đó có nghĩa là, khi bình thường các loại tình chí biến đổi có chừng có mực, thuộc phạm vi sinh lý không ảnh hưởng đến sức khỏe, nhưng nếu bị kích thích quá độ, hoặc kéo dài quá lâu thì có thể gây ra các rối loạn chức năng, làm tổn thương tạng phủ, khí huyết, kinh lạc mà phát sinh thành bệnh.
Mặt khác, trong quá trình chẩn trị bệnh tật, cổ nhân đã biết vận dụng các loại tình chí có tính đối kháng với nhau để chế ước lẫn nhau, nhằm mục đích cuối cùng là tiêu trừ bệnh tật.
Đây chính là cơ sở để hình thành một trong những biện pháp sử dụng tâm lý trong điều trị của y học cổ truyền mà cổ nhân gọi là: “ý liệu pháp” hoặc “thất tình liệu pháp”.
Trong 7 loại tình chí, hỉ thông thường là loại có tác dụng tích cực. Theo quan niệm của cố nhân, hỉ thông với tạng tâm, có khả năng làm tăng hoạt động của tâm mạch, giúp cho khí huyết lưu thông dễ dàng và hòa hoãn. Hỉ còn có tác dụng chế các loại tình chí dễ gây ra bệnh tật như ưu, tư và bi.
Bởi vậy, cổ nhân đã sử dụng “Hỉ lạc liệu pháp” một cách rất linh hoạt trong việc phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người.
Người xưa cho rằng muốn có sức khỏe phải biết điều dưỡng tinh thần, nghĩa là tạo ra và giữ được đời sống tinh thần vui vẻ, phải bồi dưỡng tính hài hước để cuộc sống không bao giờ thiếu tiếng cười.
Tiếng cười là thần dược cho sức khỏe con người, có thể giúp cho lục phủ ngũ tạng và cơ bắp được thư giãn, tâm trạng được điều tiết và cân bằng, tuần hoàn và hô hấp được thúc đẩy, khí huyết trong kinh lạc được thông suốt... Y thư cổ đã viết: “Hỉ tắc khí hòa chí đạt, dinh vệ thông lợi, khí huyết hòa sướng”.
Trương Tử Hòa, y gia trứ danh thời xưa của Trung Quốc cũng nói: “Hỉ khả trị bi, huyết lãng tiết nạp chi ngôn ngu chí”, nghĩa là vui có thể chữa được bệnh do buồn gây ra, vậy nên biết dùng những lời nói đùa vui, những trò giải trí gây cười, những câu chuyện tiếu lâm, những vở kịch dễ gây phấn khích, thậm chí kể cả những lời chẩn bệnh hoang đường để tạo nên niềm hoan lạc cho người bệnh, từ đó mà đạt được tác dụng giải sầu- chữa bệnh.
Sách “Y Uyển Điển cố thập thu” đã ghi lại một câu chuyện khá thú vị về việc dùng tiếng cười để chữa bệnh. Chuyện kể rằng: Vào đời nhà Thanh (Trung Quốc) có một viên quan chẳng may mắc chứng bệnh “u uất”, suốt ngày mặt ủ mày chau, cau cau có có.
Mặc dù gia nhân đã cho mời đủ các thầy lang có tiếng trong vùng đến xem mạch- kê đơn nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm.
Người nhà đành phải cất công đi tìm một thầy thuốc nổi tiếng nơi khác đến để chẩn trị. Vị thầy này khi hỏi bệnh kỹ lưỡng và xem mạch rất lâu rồi cuối cùng mới nói với người bệnh bằng một vẻ mặt nghiêm trang: “Thưa đại nhân! Ngài bị mắc chứng bệnh kinh nguyệt không đều”.
Nghe vậy, viên quan cười phá lên, cười mãi... và rồi mỗi khi nhớ lại lời chẩn bệnh hoang đường của vị lương y nọ lại không nhịn được cười. Nhưng cũng từ đó, chứng bệnh “u uất” của ông ta không cánh mà bay. Vị danh y đã cố tạo ra một chẩn đoán có tính phi lý và ngu ngốc để gây cười cho người bệnh và chính tiếng cười đã đem lại hiệu quả trị bệnh diệu kỳ.
Cũng cần phải thấy rằng, theo quan điểm của Đông y, niềm vui và tiếng cười là rất tốt, nhưng cũng không nên thái quá.
Bởi lẽ “bạo hỉ thương dương” (vui quá dễ gây tổn thương dương khí), “hỉ khí sở chí, vi tiếu bất hưu, vi mao cách tiêu, vi nhục bệnh, vi dương khí bất thu, thậm tắc vi cuồng” (vui tột cùng, cười không nghỉ sẽ dễ làm khô da, cơ bắp bị bệnh, dương khí thương tổn không thu lại được, thậm chí có thể phát cuồng).
Theo các nhà nghiên cứu của y học hiện đại, tiếng cười thực chất là một vận động rất có ích cho cơ thể. Khi cười, các bộ phận như cơ hoành lồng ngực, ổ bụng, tim, phổi... đều được rèn luyện, các bộ phận nội tạng được xoa bóp.
Theo nghiên cứu y học, mỗi một lần cười, cơ hoành vận động khoảng 18 lần, các cơ liên sườn, cơ mặt cũng hoạt động liên tục, vì vậy cười có tác dụng tăng cường tuần hoàn huyết dịch, cải thiện công năng hô hấp, thúc đẩy quá trình chuyển hóa và kích thích sự bài tiết của dịch tiêu hóa, làm tăng cảm giác thèm ăn, nâng cao năng lực hoạt động của dạ dày, trợ giúp cho quá trình phục hồi của dạ dày bị sa do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nhiều công trình nghiên cứu hiện đại đã cho thấy khi dùng lời nói khiến người bị bệnh cao huyết áp bật cười thì chỉ số huyết áp có thể giảm được 20mmHg và làm nhịp tim chậm đi 8 nhịp.
Ngoài ra, cười còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc điều tiết hoạt động của não bộ, lặp lại sự cân bằng của các trạng thái rối loạn tâm lý. Khi người ta bật cười, vỏ đại não được nghỉ ngơi gấp 3 lần so với khi ngủ.
Khi nghiên cứu về tiếng cười, các nhà khoa học Pháp nhận thấy, trong lúc cười, bộ não sẽ sản sinh ra các Catecholamin (Adrenalin và noradrenalin) và nhiều hormon khác- các chất này có khả năng kích thích quá trình hình thành morphin nội sinh, một chất có tác dụng trấn tĩnh và làm giảm đau rất tốt, đem lại sự yên bình cho hệ thống thần kinh trung ương và cơ thể.
Tóm lại, theo y học cổ truyền cũng như y học hiện đại, biện pháp sử dụng niềm vui, tiếng cười để phòng chống bệnh tật đã đóng một vai trò khá quan trọng.
Vấn đề còn lại là ở chỗ, làm sao có thể tạo ra được các tình huống dễ gây cười, tiếng cười thật sự từ trong tâm khảm chứ không phải những nụ cười “ngoại giao” giả tạo, tiếng cười thoải mái và hồn nhiên có thể đưa người ta vượt qua bệnh tật và bất hạnh để mang lại sự bình yên và hạnh phúc, cho cuộc đời thêm tươi đẹp.
LÊ VĂN ĐÁNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin