Chiều 2/12, tham gia thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, đại biểu Thạch Phước Bình- Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ việc Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG nhằm hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
![]() |
| Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long- Thạch Phước Bình phát biểu thảo luận tại hội trường chiều 2/12. (Ảnh: media.quochoi.vn) |
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định về cơ cấu nguồn vốn, nguyên tắc phân bổ và cơ chế thực hiện trong dự thảo (từ khoản 4 đến khoản 8 Điều 1), đại biểu cho rằng dự thảo còn bộc lộ một số bất cập lớn, chủ yếu tập trung vào 3 nhóm vấn đề: sự mất cân đối trong cơ cấu vốn; tính khả thi hạn chế của nguồn vốn đối ứng và những vướng mắc trong cơ chế quản lý, phân bổ vốn.
Trước hết, về cơ cấu giữa vốn đầu tư công và chi thường xuyên, tỷ trọng vốn đầu tư công chiếm tới 83,91% trong giai đoạn 2026 - 2030 và 90,27% trong giai đoạn 2031-2035, trong khi chi thường xuyên chỉ chiếm tương ứng 10,9% và 5,5%. Đây là cơ cấu chưa phù hợp với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, bởi chất lượng giáo dục về bản chất phụ thuộc rất lớn vào đầu tư cho con người, đặc biệt là kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Thực tiễn cũng cho thấy tỷ lệ giải ngân chi thường xuyên (kinh phí sự nghiệp giáo dục) thường thấp hơn nhiều so với vốn đầu tư công, khiến cơ cấu hiện tại càng trở nên kém hiệu quả. Cách bố trí vốn thiên về “xây dựng - mua sắm” nhưng lại thiếu nguồn lực cho “vận hành - nâng chất” tiềm ẩn nguy cơ rơi vào “bẫy đầu tư hình thức”: có thể xây dựng được nhiều công trình, trường lớp khang trang nhưng lại thiếu giáo viên, thiếu năng lực đổi mới phương pháp dạy học và thiếu kinh phí duy trì, vận hành thiết bị.
Thứ hai, về tính khả thi của vốn đối ứng, mức vốn đối ứng yêu cầu đối với các trường đại học, cao đẳng và cơ sở giáo dục nghề nghiệp là rất lớn. Cụ thể, giai đoạn 2026 - 2030 dự kiến 20.429 tỷ đồng và giai đoạn 2031 - 2035 dự kiến 68.645 tỷ đồng. Cơ quan thẩm tra đã nhận định đây là tỷ lệ đối ứng quá cao, thiếu hợp lý và khó khả thi, nhất là đối với các trường công lập đang gặp nhiều khó khăn về tài chính.
Bên cạnh đó, dự thảo chưa làm rõ căn cứ và tiêu chí xác định tỷ lệ đối ứng, chưa phân biệt theo loại hình trường, mức độ tự chủ hay năng lực tài chính, nên dễ dẫn đến mất công bằng giữa các cơ sở. Đối với phần “nguồn vốn huy động hợp pháp khác”, các mức vốn 9.143 tỷ đồng cho giai đoạn 1 và 17.030 tỷ đồng cho giai đoạn 2 mới chỉ được nêu về con số, chưa được giải trình rõ căn cứ xác định, cũng chưa chỉ ra cụ thể đó là vốn ODA, PPP, tài trợ hay xã hội hóa. Điều này làm giảm tính khả thi trong bối cảnh cả địa phương và các trường công đều rất hạn chế về khả năng huy động nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước.
Thứ ba, về cơ chế quản lý và phân bổ vốn, mặc dù dự thảo nhấn mạnh nguyên tắc “đầu tư trọng tâm, trọng điểm”, nội dung và phạm vi các hoạt động, dự án lại rất rộng, dẫn tới nguy cơ phân bổ vốn dàn trải, mỏng, kéo dài thời gian thực hiện và làm giảm hiệu quả đầu tư. Yêu cầu địa phương bố trí vốn đối ứng cũng tạo áp lực rất lớn, đặc biệt với các tỉnh đang nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương từ 60% trở lên; nhiều địa phương có thể không đáp ứng nổi yêu cầu đối ứng và có nguy cơ bị “bỏ lại phía sau” trong quá trình triển khai Chương trình. Bên cạnh đó, yêu cầu “lồng ghép nguồn vốn” trong khi mỗi nguồn (đầu tư công, chi sự nghiệp) lại có quy trình lập kế hoạch, thanh toán, quyết toán, chế độ kế toán khác nhau gần như là không khả thi trên thực tế, dễ phát sinh vướng mắc trong thanh tra, kiểm toán nếu áp dụng máy móc.
Thứ tư, cơ chế quản lý, điều hành Chương trình tại các Mục 7 và 8 cũng còn bất cập. Các nội dung được gọi là “cấp thiết” để ưu tiên nguồn lực mới dừng ở mức định tính, chưa có tiêu chí định lượng cụ thể như tỷ lệ phòng học xuống cấp, tỷ lệ thiếu giáo viên, mức độ chênh lệch về chuyển đổi số giữa các vùng... Cơ chế phân cấp, phối hợp giữa các cơ quan liên quan chưa được làm rõ, chưa xác định rõ đầu mối điều phối, chưa quy định về hệ thống báo cáo điện tử thống nhất và tần suất kiểm tra, đánh giá định kỳ. Đồng thời, cơ chế giám sát hiện mới mang tính khái quát, chưa đề cập đến việc thiết lập cơ chế giám sát độc lập, cũng như chưa tạo điều kiện cho các chuyên gia, hiệp hội chuyên ngành tham gia đánh giá, phản biện một cách minh bạch, khách quan.
Trên cơ sở những bất cập nêu trên, đại biểu kiến nghị bổ sung và điều chỉnh 3 nhóm giải pháp chủ yếu như sau:
Một là, về cơ cấu và phân bổ nguồn vốn, cần xem xét điều chỉnh lại tỷ trọng giữa vốn đầu tư công và chi thường xuyên theo hướng tăng tỷ lệ chi cho con người, nhất là kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý, thay vì dồn quá nhiều vốn vào xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị. Việc cơ cấu lại này sẽ vừa góp phần tránh lãng phí, vừa giảm nguy cơ chậm giải ngân. Đối với các địa phương khó khăn, đặc biệt là những tỉnh đang nhận bổ sung cân đối từ ngân sách nhà nước từ 60% trở lên, cần nghiên cứu bỏ yêu cầu vốn đối ứng hoặc áp dụng tỷ lệ đối ứng thấp hơn, đồng thời xây dựng cơ chế phân bổ vốn căn cứ vào mức độ khó khăn thực tế, bảo đảm nguyên tắc công bằng và hỗ trợ đúng đối tượng.
Song song với đó, kiến nghị bỏ yêu cầu bắt buộc “lồng ghép nguồn vốn” đối với các nguồn vốn có cơ chế quản lý, quyết toán khác nhau, nhằm tránh gây ách tắc và rủi ro pháp lý trong quá trình thực hiện. Dự thảo cũng cần làm rõ hơn căn cứ xác định phần vốn đối ứng của các trường đại học, cao đẳng và cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trên cơ sở phân loại tỷ lệ đối ứng theo mức độ tự chủ, loại hình cơ sở, quy mô đào tạo và năng lực tài chính.
Về nguồn lực ngoài ngân sách, cần tăng cường huy động các nguồn lực xã hội trên cơ sở tự nguyện, minh bạch, xây dựng cơ chế hợp tác công - tư (PPP) hoặc các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục, đồng thời khai thác hiệu quả tài sản công của các cơ sở giáo dục để tạo thêm nguồn thu hợp pháp.
Hai là, về cơ chế tài chính và quản lý nhà nước, cần hoàn thiện thể chế và phân cấp rõ ràng hơn. Theo đó, các quy chuẩn, định mức, hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến triển khai Chương trình phải được ban hành kịp thời; thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và UBND các tỉnh, thành phố cần được quy định rõ, tránh chồng chéo. Đồng thời, nên thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ, gắn với giám sát độc lập, bao gồm hệ thống báo cáo điện tử thống nhất, công khai tiến độ giải ngân và tình hình thực hiện; quy định chu kỳ kiểm tra tối thiểu 6 tháng/lần; đồng thời khuyến khích cơ chế đánh giá độc lập với sự tham gia của các chuyên gia, tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp. Để tránh trùng lặp nhiệm vụ, cần rà soát và đối chiếu danh mục đầu tư của Chương trình với các Chương trình MTQG khác (xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi), qua đó xác định ranh giới đầu tư rõ ràng, tránh chồng chéo về nội dung và nguồn lực.
Ba là, về định hướng đầu tư trọng tâm theo lĩnh vực, đối với giáo dục đại học, cần ưu tiên đầu tư cho các ngành, lĩnh vực mang tính chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số, như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, công nghệ bán dẫn, công nghệ cao... đồng thời hoàn thiện cơ chế hợp tác “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp” trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Đối với phát triển nhân lực chất lượng cao, cần xây dựng các cơ chế học bổng có điều kiện, gắn với cam kết phục vụ tại địa phương sau đào tạo, đặc biệt ưu tiên con em vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
Đối với đội ngũ giáo viên vùng khó khăn, cần có cơ chế đãi ngộ đủ sức hấp dẫn, như đề xuất tăng phụ cấp thu hút lên mức 70-100% lương cơ bản, hỗ trợ nhà công vụ, đảm bảo đủ biên chế và điều kiện đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ. Đối với giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa, cần ưu tiên kiên cố hóa trường lớp tại 248 xã biên giới, vùng dân tộc thiểu số, nơi điều kiện cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn, đồng thời cải thiện điều kiện sống thiết yếu cho giáo viên như nhà ở, nước sạch, hạ tầng số.
Kết thúc phần phát biểu, đại biểu cho rằng cơ cấu nguồn vốn và cơ chế điều hành trong dự thảo hiện nay còn nghiêng nặng về đầu tư công, trong khi chưa quan tâm tương xứng tới đầu tư cho con người, làm tăng nguy cơ thiếu cân bằng và khó tạo ra các đột phá thực chất về chất lượng giáo dục. Cơ chế về vốn đối ứng, lồng ghép nguồn vốn và phân bổ vốn hiện hành cũng bộc lộ nhiều điểm chưa khả thi, nhất là đối với các địa phương và cơ sở giáo dục đại học công lập. Vì vậy, đại biểu kiến nghị cần điều chỉnh toàn diện cơ cấu vốn, bãi bỏ hoặc nới lỏng yêu cầu lồng ghép và đối ứng ở những nơi không phù hợp, đồng thời tăng cường cơ chế giám sát, phân cấp hợp lý và tập trung đầu tư cho các lĩnh vực cốt lõi như đội ngũ nhà giáo, giáo dục đại học và vùng khó khăn, bảo đảm Chương trình thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng và công bằng trong giáo dục.
KIẾN QUỐC (ghi)



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin