Người học và cơ sở dạy nghề cùng hưởng lợi

02:10, 19/10/2012

Thực hiện Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”, UBND tỉnh Vĩnh Long đã ban hành Quyết định 2265 phê duyệt đề án và sau đó là Quyết định 1128 điều chỉnh đề án để triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh. Theo các quyết định trên, khi tham gia học, dạy cũng như đào tạo nghề, cả người


Những lớp đào tạo nghề tiểu thủ công nghiệp tạo việc làm và thêm thu nhập cho lao động nữ nông thôn.

Thực hiện Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”, UBND tỉnh Vĩnh Long đã ban hành Quyết định 2265 phê duyệt đề án và sau đó là Quyết định 1128 điều chỉnh đề án để triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh. Theo các quyết định trên, khi tham gia học, dạy cũng như đào tạo nghề, cả người học và cơ sở dạy nghề đều được hưởng lợi.

Học miễn phí và có hỗ trợ chi phí ăn ở, đi lại

Theo tinh thần các quyết định của UBND tỉnh Vĩnh Long phê duyệt, lao động nông thôn (LĐNT) trong độ tuổi LĐ (nam từ đủ 16 đến dưới 60 tuổi, nữ từ đủ 16 đến dưới 55 tuổi, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Riêng đối với một số ngành nghề như: sinh vật cảnh, cây kiểng,… không yêu cầu cao về điều kiện sức khỏe để làm việc thì độ tuổi của các đối tượng được hỗ trợ học các nghề này có thể cao hơn độ tuổi nêu trên (nữ có thể trên 55 tuổi và nam có thể trên 60 tuổi). Hàng năm, BCĐ thực hiện Đề án của tỉnh trình UBND tỉnh xem xét, quyết định các danh mục cụ thể các ngành nghề cho phép các đối tượng LĐ quá độ tuổi giới hạn nêu trên được hỗ trợ học nghề. Đơn xin học nghề của các đối tượng này phải có nội dung cam kết đủ sức khỏe để tham gia học và làm việc theo nghề đã học.

LĐNT khi tham gia học nghề sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề trình độ sơ cấp nghề hoặc học nghề ngắn hạn và chi phí ăn ở, đi lại trong thời gian học. Có 2 nguồn hỗ trợ cho các học viên khi tham gia chương trình này.

Với nguồn từ ngân sách trung ương, LĐNT thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, hộ nghèo, người bị thu hồi đất canh tác được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học. Ngoài ra, học viên còn được hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đ/ngày thực học/người, hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đ/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15km trở lên.

Riêng LĐNT thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo thì được hỗ trợ chi phí học nghề với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học. Còn LĐNT khác thì được hỗ trợ tối đa 2 triệu đồng/người/khóa học. Mức hỗ trợ cụ thể cho 3 diện đối tượng nêu trên tùy theo từng ngành nghề và thời gian học thực tế.

Nguồn thứ hai hỗ trợ LĐNT học nghề là từ ngân sách địa phương. Đây là nguồn được sử dụng để bổ sung cho nguồn kinh phí trung ương khi tổ chức các lớp dạy nghề cho LĐNT trong các trường hợp mà đối tượng thuộc các diện trên tham gia các khóa học nghề (sơ cấp nghề, học nghề ngắn hạn) có chi phí đào tạo cao hơn mức quy định của nguồn kinh phí trung ương. Nguồn này còn hỗ trợ cho LĐNT thuộc hộ cận nghèo tiền ăn với mức 15.000 đ/ngày thực học/người.

Đó là quy định cho học nghề trình độ sơ cấp nghề hoặc học nghề ngắn hạn, còn khi tham gia các khóa học trình độ trung cấp, cao đẳng nghề thì các đối tượng: người dân tộc thiểu số, hộ nghèo, người có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được hưởng chính sách như đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú.

Ngoài ra, tùy theo khả năng cân đối, huy động nguồn lực kinh phí hàng năm của tỉnh và của huyện, thành phố, sẽ sử dụng một phần ngân sách địa phương và các nguồn huy động xã hội để hỗ trợ chi phí học nghề cho các đối tượng LĐNT theo nội dung và mức hỗ trợ theo quy định hỗ trợ từ ngân sách trung ương (khi thực hiện phải có dự toán cụ thể hàng năm và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo khả năng cân đối của ngân sách).

Mỗi LĐNT chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của đề án này. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của đề án này. Riêng những người đã được hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để chuyển đổi việc làm theo chính sách của đề án này nhưng tối đa không quá 3 lần.

Được trợ vốn và đầu tư trang thiết bị

LĐNT khi tham gia học nghề được vay vốn để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh- sinh viên và khi LĐNT làm việc ổn định sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay trên. Ngoài ra, LĐNT sau học nghề được vay vốn từ quỹ quốc gia việc làm để tự tạo việc làm.

Đối với giáo viên, cán bộ quản lý xuống cơ sở để dạy nghề từ 15 ngày trở lên trong tháng được hưởng phụ cấp lưu động hệ số 0,2 so với mức lương tối thiểu chung. Người dạy nghề (cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… tham gia giảng dạy) được trả tiền công 25.000 đ/giờ. Người dạy nghề là tiến sĩ trong lĩnh vực khoa học, nông nghiệp được trả công 300.000 đ/buổi.

Đối với các cơ sở đào tạo nghề, được đầu tư trang thiết bị bằng nguồn vốn của Trung ương và địa phương.


LĐ nông thôn được đào tạo nghề may công nghiệp theo địa chỉ tại Trường Trung cấp nghề số 9.


Vĩnh Long cũng ưu tiên đặt hàng đào tạo nghề đối với các đơn vị dạy nghề có khả năng đào tạo ngành nghề phù hợp và giải quyết 100% việc làm cho LĐNT theo nhu cầu tại địa phương, doanh nghiệp và xã hội. Đồng thời, tỉnh ưu tiên đầu tư cho các đơn vị đào tạo ngành nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp, có xây dựng mô hình để giảng dạy và nhân rộng ứng dụng hiệu quả tại từng vùng, địa phương nơi người dân sinh sống. Tất cả các trường nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh đều có thể tham gia đề án này.

Một trong những yêu cầu của đào tạo nghề cho LĐNT theo Đề án 1956 là đào tạo nghề phải gắn với việc làm, đáp ứng nhu cầu của người học và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Nói cách khác, dạy nghề phải xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, nhu cầu sử dụng nhân lực.

Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi triển khai, tỉnh Vĩnh Long đã tổ chức điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của LĐNT; nhu cầu sử dụng LĐ qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực hiện tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp thực tiễn của người dân nông thôn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và LĐNT, không chỉ thuần túy là “dạy nghề” mà còn tư vấn, hướng dẫn bà con cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, đảm bảo “đầu ra” hoặc là tiếp nhận LĐ sau khi được học nghề. Với cách làm này, hầu hết các đối tượng tham gia học nghề cơ bản được giải quyết việc làm ổn định.

Đề án “Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009. Mục tiêu bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu LĐNT, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã.

Theo đề án trên, đến năm 2020, sẽ đào tạo nghề cho 6 triệu LĐNT. Trong đó, khoảng 5,5 triệu LĐNT được học nghề (1,4 triệu người học nghề nông nghiệp; 4,1 triệu người học nghề phi nông nghiệp), trong đó đặt hàng dạy nghề khoảng 380.000 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, LĐNT bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế- xã hội chuyên sâu cho khoảng 500.000 lượt cán bộ, công chức xã đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý kinh tế- xã hội thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Bài, ảnh: THANH NGHI


 

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh