1. Tháng chín chạm ngõ. Nắng gập ghềnh về, nhưng chưa thực nóng. Những cơn mưa bất chợt làm nhiệt độ xuống thêm mấy bậc, khiến trời chợt se se. Loại thời tiết chớm thu, lơ lửng mát, làm người ta cũng bớt những bực dọc vô cớ.
![]() |
Minh họa: Trần Thắng |
Xa về phía cửa vịnh, sóng đang xô những tiếng rầm rì vào bờ. Bãi bồi tung cát tít tròn cạnh cái thuyền thúng úp ngược. Bóng lão Tư gàn lấp ló trong tối, buông thõng bờ lưng để nó tự vẽ nền trên cát. Lão quấn mấy vòng dây dừa vào bắp tay, gồng vai kéo căng tấm bạt che lều. Cái lều chẳng có cửa, phập phồng hứng những cơn gió lùa. Thứ gió mang theo vị muối mặn và cát trắng.
Lại một đêm no gió, và đơn côi.
Lão Tư là ngư dân. Chân lão bám đất xứ này từ hồi chạy sơ tán. Kể ra, cái nghề đánh cá vận vào lão bằng cách truyền thừa. Ba lão theo biển nửa đời, ngày cuối cũng dành trọn trong lòng biển. Có điều, cái “trọn” này lại là một câu chuyện xót xa.
Đêm bắt đầu kéo đen cửa rạn. Trăng leo từng bậc, phi dần lên ngọn dương liễu. Những bóng cây như ai đó mộng du, lung lay dưới vầng sáng nhạt. Bên cạnh gốc dương liễu thứ ba, lão Tư đặt một chồng áo phao màu cam. Từ ngày lão bán đi mấy mươi rổ cá để mua, nhà lão lục đục ghê lắm, mà chồng áo phao vẫn cứ vơi dần đều.
Chả bố, bọn bất lương nào lại lén lấy thứ cứu người như thế. Lão tức giận chửi vài câu vào gió, rồi gió biển cũng cuốn nó ra khơi. Bọn bất lương trộm áo phao vẫn chẳng thấy tăm hơi để mà đôi co đòi lại. Đời là thế. Lão nhổ toẹt một ngụm nước bọt, rồi thở hắt. Cái loại thở để bưng biểu tâm trạng. Dù rằng, chắc chẳng ai quan tâm tới, ngoài gió cát và màn đêm mịt mờ đang ôm rít quanh vai lão.
- Ông Tư!
Tiếng vọng từ phía đồi cát. Lão chớp đôi mắt đã nhòe đục, nhìn sang. Thằng Sáu Cò đang khập khễnh chạy về phía lão. Nó giơ cái đèn pin lên quá đầu, tay còn lại lau vội vầng trán ướt nước mưa:
- Con tìm ông Tư mãi.
- Để chi?
- Cái Phượng nó phải ra ngoài ngã ba 46 bắt xe. Tối quá nó chẳng biết nhờ ai chở.
- Ừ.
Lão Tư húng hắng ho nhẹ. Cái chõng tre chưa kịp bung mền vẫn ngơ ngác đặt dưới tấm lều bạt được căng kỹ. Lão lom khom bước tới, mò tìm chùm chìa khóa trong túi vải dù đặt cạnh gối. Tiếng leng keng của chìa khóa va vào nhau, làm đêm chợt xao động.
- Đi thôi.
Vừa dứt lời đã thấy lão cất bước. Thằng Sáu Cò gãi đầu, cũng ú ớ chạy theo. Bóng cả hai dần mất hút sau cơn mưa nhẹ, nhập vào màn đêm u uẩn. Biển rào sóng ầm ã, như thể đang nói, chà, lão già kia lại đi lo chuyện bao đồng!
2. Chả biết tự bao giờ mà người ta gọi lão Tư là đồ gàn dở. Những công việc “tù và” không tên, lão vẫn móc tiền túi ra làm. Bà Tư mấy bận cũng ầm ĩ ghê lắm, chén bát trong nhà cứ va đập miết, ấy thế rồi vẫn đành chịu thua với cái nết bướng của lão.
Trời không chịu đất, thì đất chịu trời chứ biết làm sao! Chả không lẽ từng tuổi này rồi còn kéo nhau ra tòa ly dị? Nói thế thôi, chứ vợ chồng cũng chẳng còn ngọt nhạt được như trước. Hai người hai nơi, chen giữa cái khoảng trống to hoắc ấy là mấy đứa con thi thoảng ghé về thăm nom tý đỉnh.
Lão thường rầu rĩ một mình.
Bàn tay gân guốc của lão hay mân mê mấy cái mắt lưới. Lão không thích nói chuyện, cứ tưởng lão khó tính, vậy mà ai đánh bạo nhờ gì, giúp được thì lão đều giúp nhiệt tình, chẳng quản xa gần thân thuộc.
Người ở quê cần đi đâu, hoặc từ xa về nhà, ới một tiếng, lão Tư phóng cái xe cà tàng nồng mùi cá ra bến chở giúp ngay. Lão bảo, cùng làng với nhau, thương được thì cứ giúp. Hơn thua mấy đồng tiền xăng cũng chẳng giàu lên nổi. Nói rồi lão lại ngại ngùng xoa cái trán đã hằn vài ba nếp nhăn trước tuổi.
Đúng là gàn thật!
... Nhưng mà hình như, đâu có “dở”?
Có người hỏi lão, sao mà cứ đi chở giúp thế hả anh Tư? Lão ngồi lên mom đất, đốt điếu thuốc, mắt đăm chiêu nhìn ra cái đường mòn trước mặt:
- Chỗ kia kìa- Lão vươn tay chỉ gốc cây liễu- Hồi má còn sống, hay đứng đó xin đi nhờ xe.
- Bà Hai Thịnh ấy ạ?
- Ừ, tao lấy đâu ra lắm người má.
Lão rít một hơi thuốc, làn khói trắng vẽ đường vòng cung lên trời như một cái cầu vồng thảm đạm.
- Bã già rồi, mà vẫn ức làm việc ngoài cửa biển. Cuốc bộ không nổi, tiếc tiền xe ôm, nên cứ xin đi nhờ. Khiếp, nắng non, mà cứ đứng chất ngất đó.
Có người thương, cũng dừng lại chờ, bã khấp khởi thọt thà chạy tới, người ta đổi ý, phóng đi cái vèo. Hít khói. Tao ngồi đan lưới mà thấy thương quá chừng, ngặt nỗi hồi đấy tao làm gì có tiền mua xe! Đôi khi, cái hiếu, cái lòng tốt cũng cần phải có điều kiện mới thực hiện được.
- Ui cha, sao người ta “chơi” kiểu đó anh Tư hè? Không chở thì thôi, mớ gì để bà già mắc công chạy lại...
Lão lại rít hơi thứ hai. Gió biển xoay khói đi tán loạn. Giọng lão cũng như lạc đi:
- Cũng chả trách được. Chở bà già, lỡ bã ngồi không vững thì người ta mang họa. Lúc dừng là cũng khởi lòng tốt, nhưng so với bản thân, thì lòng tốt ấy chợt được suy xét lại, thế thôi.
Cả hai im lặng.
Không tự dưng mà lão Tư lại chở giúp người ta như thế. Lão cũng từng thấy má mình khổ, tới khi có điều kiện lại chẳng kịp lo cho má nữa rồi. Lão đem lòng tốt đi giúp những người cần khác, như má lão ngày trước. Một sự bù đắp cho những hối tiếc, và ngăn chặn sự hối tiếc.
- Còn cái áo phao? Anh mua chi nhiều dữ?
Lão híp mắt nhìn đường, rồi đảo qua phải, nơi có mấy con sóng vỗ rì rầm. Tay lão gẩy rớt tàn thuốc xuống đất, chép miệng:
- Ba tao mất lúc cứu người đuối nước. Nhớ chứ? Con Sáu Đẹt xóm dưới ấy. Nó mơ ngủ té khỏi ghe, ba tao nhảy xuống đẩy lên, rồi ổng trôi đi luôn. Giá mà có cái áo phao vứt tới, thì biết đâu..
Nói rồi lão thở hắt một hơi dài.
Đúng là đôi khi, cái gàn dở trong miệng người đời lại được xây nên từ biết bao nước mắt hối hận, buồn đau của ai khác.
3. Ngoài cái danh gàn dở, lão Tư còn được chiến hữu gọi là “giáo sư”.
Nhớ cái đợt covid tràn về xóm chài, mọi người cứ xáo xào hết lên. Trước giờ có ai biết dáng hình khẩu trang là thế nào! Bà con lối xóm cả, ra trước không gặp thì quẹo sau cũng đụng mặt, giờ cứ nghi kỵ nhau thế này, sống gì nổi!
Thế rồi lão Tư bỏ lại mắt lưới, mặc đồ bảo hộ mới sắm trên huyện, cùng trưởng thôn đi từng nhà phát nhu yếu phẩm. Hồi đó ai cũng hoặc bệnh, hoặc sợ, nhân lực của thôn gần như chẳng có mấy người, thành ra cái lão gàn dở có tiếng nay tiếp tục xung phong trận đầu.
- Anh Tư!
- Ừ.
Lão vẫn lầm lì. Vậy nhưng lúc tuyên truyền cách ly, lão lại nói vanh vách mà chẳng cần nhìn giấy tờ. Mấy thứ kiến thức trên báo đài nghe khô khan khó hiểu với kẻ chài lưới, qua lời dân dã hóa của lão tự nhiên lại thông não dễ sợ.
Chẳng ai biết lão học chữ bao lâu. Cái ngày lão sơ tán về xóm chài hình như cũng đã 14, 15 tuổi. Vài bận thư rảnh cũng thấy lão lôi tấm bằng khen bọc trong bì nhựa kính ra xem. Lão dung nhập nơi này một cách tự nhiên, đến nỗi dù có mở miệng, cũng chẳng ai ngờ tới lão lại có một tay viết chữ đẹp như in trong sách.
Con cái lão đứa nào cũng viết chữ đẹp, được lão Tư rèn từ tấm bé. Có đứa út nghe bảo còn được cả giấy khen “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường. Ở đời, con người không nên chỉ được đánh giá qua những cái vật chất 3D trước mắt. Đúng thật. Giỏi giang là vậy, nhiều lần nhà lão cũng được đề nghị xét gia đình văn hóa, nhưng rồi chỉ vì thiếu cái công trình vệ sinh đạt chuẩn mà lại bị gạch tên. Nhắc tới đó là bà Tư lại bực mình.
Tiền của làm ra, lão toàn đi mua đồ cứu hộ trên biển cho mọi người, hoặc là đi giúp đỡ xóm giềng. Nào có dư chút đỉnh để làm nhà vệ sinh. Mỗi lúc như thế là lão cúi mặt chẳng hé răng. Lắm lúc trong mấy buổi cà phê, lão cũng nhận mình có sai vì để bà Tư khổ. Nếp nhăn quanh mắt lão đùm riết lại, như ép chặt một giọt lệ tràn.
4. Đó là một đêm vắng lặng, khi sóng biển cũng tạm nghỉ và trăng khẽ trốn sau mây.
Trên cái ghe viền xanh, lão nằm im cạnh mớ lưới đánh cá vừa thu. Xung quanh, bạn chài xúm lại cấp cứu, những thứ động tác dân dã chẳng mấy tác dụng với người bị đột quỵ.
... có khi còn tệ hơn.
Lão nhắm nghiền hai mắt. Môi lão trắng bệch, xộc xệch méo. Thằng Sáu Cò loay hoay tìm lọ thuốc cao huyết áp trong túi áo của lão, mà chẳng thấy đâu. Mồ hôi nó vã như tắm, tay run lẩy bẩy vì hoảng.
- Chết dở, hay ảnh quên đem thuốc rồi!
Có người sốt ruột nói.
Tiếng ồn ã lẫn vào sóng biển. Sự sống của lão cứ trôi đi, tỷ lệ nghịch với tốc độ vào bờ của con tàu đánh cá.
Những hai tiếng đồng hồ.
Làm sao đây? Ai nấy toát mồ hôi, còn người lão thì cứ lạnh dần. Ông thuyền trưởng tay nắm bộ đàm, những chuỗi điện xin giúp cứ như gửi vào lòng biển. Đen tối thật. Ông ta đấm mạnh vào thành cửa, như cách người ta tống thẳng sự bất lực ra bên ngoài.
Lão bắt đầu có những dấu hiệu chẳng lành. Trời ạ! Chả lẽ lão phải chết cô quạnh trên cái ghe tanh nồng mùi biển thế này sao? Không, không thể. Cố lên anh Tư! Cố lên anh. Có người rầu rĩ khóc.
Biển dã như khoanh lại vừa bằng thân ảnh lão. Bỗng, ngoài khơi hắt vào ánh đèn sáng rực.
- Là tuần cảnh!
Ai đó reo lên.
Tàu cập vào gần. Lão Tư được đưa lên cán. Cô quân y tháo vội chiếc khẩu trang, hét lớn:
- Giữ vững đầu ông Tư, đừng để lắc!
Giọng nói này...Ơ, cái Phượng, ngã ba 46?
Sáu Cò nheo mắt, ngó lom lom. Giây lát, anh chàng bật cười.
Ông Tư, làm việc tốt thì chẳng cần nhận lại. Vài người cả đời cũng không đợi tới hồi báo. Vài người hẹn chờ kiếp sau. Cũng có vài người, cái quả từng gieo được gặt hái ngay trong lúc chẳng ai ngờ tới nhất.
Trên biển này, giữa ngàn trùng sóng nước, lão Tư luôn tin không chỉ duy nhất lão là người gặt biển, yêu thương luôn vỗ vào làng chài những con sóng tử tế. Để người vì nhau mà sống trên xứ biển cát mùi khơi này.
NGUYÊN VĂN
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin