Lần nào nhắc tới đứa con gái tên Liên bị lạc hồi năm 6 tuổi ông Ba Thà cũng khóc. Đó thường là những lúc hơi men đã ngấm sau khi ông nâng cút rượu chuối hột cụng ly với Hậu bảo dzô đi chú phóng viên rồi đưa lên miệng ngửa cổ ực luôn mấy chung liền.
![]() |
Minh họa: Trần Thắng |
Người ta uống để tiêu sầu, còn ông thì mượn rượu để trút bầu tâm sự. Gần 20 năm thui thủi với niềm ân hận không bảo bọc được đứa con gái duy nhất để nó mất tích, ông tự trừng phạt mình bằng sự kiên nhẫn kiếm tìm lẫn chờ đợi, bởi ông tin thể nào rồi cũng có một ngày cha con ông trùng phùng.
Từ chiến trường trở về đã ngoài 30. Muộn mằn ông mới lấy vợ là người con gái đã chờ đợi mình suốt gần một thập kỷ biền biệt. Cũng muộn mằn mới có được đứa con gái, bao nhiêu tình thương của ông đều dồn cho nó hết, khi má con nhỏ vì sinh khó mà qua đời. Hai cha con sớm hôm bầu bạn, đi đâu ông cũng dẫn con gái theo. Ấy rồi một bữa đưa con đi chợ huyện sắm sạn quần áo sách vở chuẩn bị cho năm học mới thì ông để lạc mất con bé.
“Ban đầu tui cõng nó trên lưng nhưng nó một hai đòi xuống để đi coi ngó cho thỏa thích. Tui dặn theo sát tui nhưng nó nghịch ngợm bước chân sáo xem hàng này ngắm thứ nọ khiến tui chạy theo đến hụt hơi. Vậy rồi giữa buổi chợ đông, tui vừa quay vào phía hiệu sách bảo người ta gói tập vở viết thước lại trở ra thì con nhỏ đã biến mất”.
Ông Ba kéo tay áo bà ba quệt hai hàng nước mắt, phân trần.
Nhìn vẻ đau đớn trên gương mặt già nua đã rúm ró lại, Hậu nghe lòng buồn miên man. Phải mà anh là con gái chắc đã xúc động nắm tay ông, thưa: “Con là Liên của tía đây” rồi ở lại làm con của ông cho có tía có con, quên bỏ đời côi cút.
Cha mẹ Hậu mất trong một vụ tai nạn đường sắt vào năm anh 14 tuổi. Tờ báo nơi mà sau này Hậu xin vào làm việc đã ra tay vận động và bảo trợ để anh có cơ hội được tiếp tục cuộc sống và con đường học vấn bằng chương trình tiếp sức đến trường.
Lần đầu Hậu gặp ông Ba là khi làm phóng sự về nghề đáy hàng khơi. Hồi ấy ông Ba là bạn chòi, ngày đêm canh giữ ba chục miệng đáy nơi cửa sông giáp biển. Khi chiếc ghe của chủ đáy ra nhận chiến lợi phẩm chở theo anh nhà báo trẻ cũng là lúc những con sóng lớn vồ tới, thuyền trồi lên thụp xuống khiến Hậu nôn thốc nôn tháo tái mét cả mặt mày. Chiếc máy ảnh được đầu tư bằng 3 tháng lương tưởng đâu chuyến đó đã vào viện sửa chữa vì bị nước bắn.
Giữa biển nước mênh mông, ông Ba Thà kéo Hậu lên chòi bằng cái cần xé. Nhìn gương mặt người thanh niên còn non choẹt như chưa nếm chi sự đời lắm nỗi, giọng ông cộc lốc: “Nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm”. Sau khi bật đèn xanh bằng câu “muốn hỏi gì thì hỏi đi”, ông châm hai điếu thuốc mời Hậu một điếu bảo là cho dễ nói chuyện.
Hậu không biết hút nhưng cũng nể mặt rít một hơi rồi ho sằng sặc. Ông Ba cầm điếu thuốc liệng xuống nước, lời thẳng đuột: “Không biết cứ từ chối, cả nể làm quái gì. Hổng lẽ làm nghề như mấy cậu cũng hay cả nể rồi bẻ cong ngòi bút?”.
Mấy lời của ông sau này cứ khiến Hậu nhớ mãi. Mỗi lần ngồi trước trang viết anh lại nhớ ông từng bảo: “Chú em là người thư ký của xã hội, không viết thì thôi, đã viết thì phải viết sao cho tử tế đàng hoàng”.
Khi bài phóng sự 5 kỳ được duyệt và in liên tiếp 5 số liền, đợi khi báo ra đủ, Hậu mang về nơi cửa sông. Dưới ánh sáng của ngọn đèn mù u thắp giữa trùng khơi ông Ba Thà nheo mắt đọc. Vừa là nhân vật, vừa như một độc giả trung thành và khắt khe, ông nhẹ giọng: “Viết cũng được, nhưng nếu để cho những người ít chữ nghĩa lao động chân tay như tụi tui đọc thì câu chữ chỉ nên đơn giản dễ hiểu thôi”.
Tới lui thêm mấy bận nữa thì từ nhà báo và nhân vật Hậu và ông Ba Thà trở thành bạn tri âm. Kẻ mất cha mẹ người mất con cũng là nguyên do khiến một trẻ một già tìm được sự lấp đầy cho nỗi trống vắng. Sau này khi không còn giữ đáy, ông Ba về bám bãi bồi sông nơi có rừng bần phòng hộ lấn biển để làm thợ câu. Sáng sớm vác cần đi, buổi trưa về là lưng can cá tra bần, cá bông lau đủ cho ông có một cuộc sống thoải mái. Và loạt bài phóng sự điều tra “Mưu sinh dưới tán rừng” của Hậu cũng được khởi từ ông. Với Hậu, ông là một nhân vật đầy duyên nợ.
Dần dà thân thiết, ông Ba coi Hậu kể như con cháu trong nhà. Không còn “chú Ba, chú Ba”, giờ Hậu tiếng một tiếng hai đều gọi ông bằng tía. Để rồi trong những cuộc trà dư tửu hậu, anh phóng viên lại được nghe ông tâm sự đủ điều.
Loạt bài “Muôn nẻo tìm con” là thiên phóng sự về hành trình của người cha tìm con. Gần 20 năm, đôi chân ông đã mỏi mòn lặn lội biết bao miền đất. Cứ lúc nào kiếm được một khoản tiền đủ làm lộ phí cho một chuyến đi là ông lại khăn gói lên đường. Ông biểu: “Phải tìm được con thì khi chết mới có thể nhắm mắt”.
Có lần Hậu bảo: “Tía có tấm ảnh nào hồi còn nhỏ của em Liên thì đưa cho con đăng lên báo, biết đâu may mắn sẽ tìm được”. Ông Ba lấy ra bức hình chụp hai cha con vào mùa Tết cuối cùng trước khi con gái mất tích đã ố màu. Tần ngần ông hỏi: “Đăng như vậy có mắc tiền không bây? Mà mắc cỡ nào miễn tìm được con Liên thì bao nhiêu thân già tao cũng ráng trả cho tòa soạn”.
Hậu cười nói ba cái này hổng tốn bao nhiêu. Lúc ông đưa bọc tiền lẻ được gói cẩn thận trong túi nilon dành cho chuyến đi tìm con tiếp theo, Hậu từ chối biểu tía cứ cất đó. Bao giờ người thuê đăng tin tìm được thân nhân báo mới lấy tiền. Nói là nói vậy nhưng tháng nào Hậu cũng bỏ tiền túi để báo in cho một tin nhỏ. Anh cũng vận dụng hết tất cả nghiệp vụ và mối quan hệ để giúp ông tìm kiếm nhưng thời gian cứ trôi vụt qua hết ngày này đến tháng khác vẫn chưa có tin tức gì.
Không loại trừ khả năng đứa con gái tên Liên của ông đã không còn trên đời này nữa. Nhưng theo lẽ thường, Hậu lại khuyên ông đừng bao giờ từ bỏ niềm hy vọng. Bởi biết đâu…
***
Cuộc điện thoại đó đến vào buổi đêm. Hậu vừa trở về sau buổi tác nghiệp. Đó là giọng của người đàn bà đã đứng tuổi bảo ảnh đứa bé gái trong tin cha tìm con rất giống với cô con gái nuôi của bà khi bà lượm được cách đây gần 20 năm.
Bao nỗi mệt nhọc từ ngoài đường trong Hậu lúc này như tan biến đi. Nhưng sự việc chưa xác minh anh không thể báo với ông Ba, phòng trường hợp không đúng thì người cha sẽ vô vàn thất vọng. Người đàn bà gọi đến lại báo địa chỉ ở xa quá, tận đảo Châu. Hậu từng đến đây một lần trong chuyến công tác biển đảo cuối trời Tây Nam.
Ở đó điện đóm chưa có, đường sá trắc trở khó khăn nên phương tiện thông tin đến cũng khi vầy khi khác. Cũng may mà tờ báo Hậu cùng góp lửa khá có tiếng nên hàng tháng vẫn được chuyên chở ra đảo cho bộ đội đọc tin và cập nhật tình hình trong đất liền.
Ngay trong đêm, Hậu lên đường ra đảo cùng với sợi tóc bạc của ông Ba Thà mà anh vẫn giữ cho cuộc xác minh thân nhân. Trên chiếc tàu cá quá giang lênh đênh giữa trùng dương bao vây là thảm nước ngút ngàn xanh, lòng Hậu hồi hộp như thể chính anh đang trên đường tìm gặp người nhà bị thất lạc.
***
Khi đứng trước đứa con gái dong dỏng cao với đôi mắt sáng ông Ba Thà thốt nhiên ôm mặt. Hậu cầm tờ giấy xét nghiệm ADN bảo: “Tía xem đi”. Ông mếu máo: “Khỏi cần. Bởi con nhỏ giống má nó thời trẻ y như đúc”.
Và khi gặp người đàn bà đã nhận nuôi Liên, ông càng thêm thảng thốt. Dù đường nét phong sương khi tuổi tác bị thời gian tàn phá nhưng trông bà giống thật giống người vợ quá cố của ông. Khi trở về ngôi nhà tranh vách lá ở vàm sông, Liên kể ngày ấy đang rong ruổi ở chợ thì cô bắt gặp một người đàn bà giống hệt má trên di ảnh.
Vậy là quên luôn lời căn dặn phải theo sát tía, cô cứ như bị thôi miên mà đuổi theo bóng áo bà ba. Cô đi mãi đi mãi, người đàn bà qua đò cô cũng qua, xuống phà cô cũng xuống. Cô hỏi người đàn bà: “Má là má của con phải không, sao má không về ở với tía?”. Người đàn bà ngẩn người còn Liên thì sực tỉnh nhận ra đây không còn là khu chợ mà lúc sáng cô theo tía đi sắm sửa đồ đạc và dụng cụ học tập. Người đàn bà biết đứa nhỏ nhận nhầm người, có lòng dẫn cô quay lại theo lối cũ nhưng thế gian biểu nhỏ thì không nhỏ, Liên cũng chẳng nhớ chẳng biết con đường về nhà mình.
Họ cũng ngày dài tìm kiếm nhưng vô phương. Rồi cuộc đời run rủi họ ra đảo Châu sinh sống. Người đàn bà vì không con nên bị nhà chồng đuổi xua. Hôm rồi nhờ đọc tờ báo cũ bộ đội cho, vô tình bà thấy tin và liên hệ theo số điện thoại của Hậu.
Ông Ba Thà chùi nước mắt, vỗ vai Hậu: “Bây là ân nhân của tía con tao. Bữa nay ở lại ăn bữa cơm với gia đình tía mừng ngày sum họp”.
Khi ông dẫn tay con gái vào nhà đến trước bàn thờ người mẹ quá cố, Hậu vẫn còn nghe ông lập bập: “Con về với tía vầy là tốt rồi. Từ rày không bao giờ tía để lạc mất con nữa”.
Liên xúc động một tay nắm tay tía, một tay nắm tay má nuôi. Như thể hai gia đình sắp có một gia đình mới. Hậu nhìn ra phía vàm sông, chiều rồi mà nắng vẫn còn vương lại, sáng rực cả bãi bồi.
HIỀN DƯƠNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin