
Theo PGS.TS. Lê Anh Tuấn- giảng viên cao cấp Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Trường ĐH Cần Thơ), các đô thị ở ĐBSCL đa phần cách nhau khoảng 60km. Đây không phải là khoảng cách ngẫu nhiên mà có lý do đặc biệt.
(VLO) Theo PGS.TS. Lê Anh Tuấn- giảng viên cao cấp Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Trường ĐH Cần Thơ), các đô thị ở ĐBSCL đa phần cách nhau khoảng 60km. Đây không phải là khoảng cách ngẫu nhiên mà có lý do đặc biệt.
Ngày 15/5, tại Trường ĐH Cần Thơ ra mắt dự án kỹ năng về khí hậu - hạt giống cho chuyển đổi xanh, do Hội đồng Anh và Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường ĐH Cần Thơ) triển khai. Tại đây, PGS.TS Lê Anh Tuấn đã trình bày về chủ đề “Dòng sông Mekong và thực trạng biến đổi khí hậu tại ĐBSCL”.
![]() |
PGS. TS. Lê Anh Tuấn. |
Trong phần trình bày này, ông Tuấn cho biết và diễn giải lý do các đô thị ĐBSCL cách nhau khoảng cách rất đều đặn, khoảng 60km.
Ông nêu dẫn chứng thực tế: TP Châu Đốc cách TP Long Xuyên 60km, TP Long Xuyên cách TP Cần Thơ 60km, TP Cần Thơ cách TP Sóc Trăng 60km, TP Sóc Trăng đi TP Bạc Liêu gần 60km và TP Bạc Liêu đi TP Cà Mau cũng khoảng 60km... Đây không phải là khoảng cách ngẫu nhiên.
Theo ông Tuấn: “Ngày xưa người dân Việt Nam từ các nơi đến ĐBSCL đi bằng ghe, xuồng. Họ đi theo con nước. Một ngày thủy triều bốn lần thay đổi dòng chảy, mỗi lần được sáu giờ đồng hồ, trong đó sáu giờ nước lên và sáu giờ nước xuống.
Và vận tốc trung bình của dòng sông Mekong khoảng 10km/h, nhân với sáu giờ thì ra khoảng 60km. Có nghĩa là tàu đi được 60km theo dòng nước thì đổi dòng, người ta đứng lại hình thành ra những chợ nổi. Đợi cho con nước tới đi tiếp.
![]() |
Một góc TP Vĩnh Long- thành phố ven sông. |
Dấu vết còn lại là chợ nổi- chỗ trao đổi hàng hóa, rồi sau đó họ lên định cư trên bờ, hình thành nên những đơn vị hành chính sau này. Không có đồng bằng nào trên thế giới hình thành địa giới hành chính theo nhịp thủy triều như ĐBSCL. Đó là đặc điểm rất đặc biệt”.
Ông Tuấn cũng cho biết, ĐBSCL là đồng bằng lớn và sông Mekong là sông lớn nhất ở Đông Nam Á. Sông này có thể tải ra khoảng 500 m3 nước hàng năm. Đây là một con số rất đáng lưu ý. ĐBSCL có 2 mùa riêng biệt là mùa nắng, mùa mưa. Hai mùa đó tạo ra sự phân phối nước bất cân xứng.
Mùa mưa cũng đồng thời là mùa lũ, lượng nước đến ĐBSCL rất lớn, chiếm vào khoảng gần 40.000 m3/giây. Nhưng mùa khô thì mực nước sông Cửu Long và lưu lượng của nó giảm xuống rất thảm hại còn khoảng 2.500 m3/giây, có những năm khô hạn có thể xuống khoảng 1.700 m3/giây, gây thực trạng hạn hán rất phổ biến ở đồng bằng này.
ĐBSCL có mạng lưới sông rạch rất chằn chịt, có thể nối tất cả các địa phương qua hệ thống sông. Nghĩa là có thể đi trên ghe tàu từ địa phương này qua địa phương khác. Tổng chiều dài kênh rạch ở ĐBSCL nối lại với nhau thì dài gấp đôi đường xích đạo của trái đất.
“Đây là con số rất đáng kinh ngạc, cho thấy lao động của người dân đào những con kinh dài gấp đôi đường xích đạo là như thế nào”- ông Tuấn nói. Chính vì sông nước tạo ra đặc điểm rất riêng biệt của ĐBSCL đối với những vùng khác và người ta nói đây là vùng văn minh sông nước.
Ông Tuấn cũng cho biết thêm, vì đây là vùng cuối cùng của một lưu vực sông rất lớn và nằm vùng ở đất thấp (chiều cao trung bình của ĐBSCL khoảng 1,5m)… nên tác động của thượng nguồn, của Biển Đông và Vịnh Thái Lan thì gây ảnh hưởng tới ĐBSCL rất rõ rệt.
Chúng ta nên xem vùng ĐBSCL như một cơ thể sống. Khái niệm này không mới, trên thế giới có những quốc gia xem dòng sông như một cơ thể sống. Chính vì xem dòng sông như một cơ thể sống, kênh mương là mạch máu nên cần có những ứng xử phù hợp để cơ thể đó khoẻ mạnh.
Bài, ảnh: TUYẾT HIỀN