An ninh nguồn nước là bảo vệ sinh mệnh đồng bằng

Kỳ 2: Khi đồng bằng đánh đổi mùa nước nổi

Cập nhật, 13:47, Thứ Ba, 04/10/2022 (GMT+7)
Ruộng lúa vụ 3 của ông Huỳnh Phước Thọ (huyện Phú Tân- An Giang); nhưng ông vẫn mong “buông” vụ 3 đón mùa nước nổi hàng năm.
Ruộng lúa vụ 3 của ông Huỳnh Phước Thọ (huyện Phú Tân- An Giang); nhưng ông vẫn mong “buông” vụ 3 đón mùa nước nổi hàng năm.

(VLO) Đồng bằng đã gánh trên vai sứ mệnh “an ninh lương thực”, bằng cuộc tiến công vào Đồng Tháp Mười (ĐTM) và “đánh thức” vùng Tứ Giác Long Xuyên; đó là thành công của chủ trương lớn trong một giai đoạn nhất định.

Nhưng mặt trái của nó là nếu chúng ta đi theo hướng cực đoan, với kiểu “xuất khẩu gạo nhất, nhì thế giới” thì sẽ theo lối sản xuất gây tổn hại nghiêm trọng hệ sinh thái đồng bằng.

Theo đó, là giải pháp cực đoan dùng đê bao vây kín, siết chặt cả “mặn và ngọt” mà bỏ qua vấn đề cốt tử về “an ninh nguồn nước”. Không chỉ là gần 20 tỷ mét khối nước phù sa hàng năm không thể tràn đồng, kéo theo đó là những hệ lụy không đo đếm được.

Nguy hiểm hơn, khi những điều bất thường kéo dài, sẽ tạo nên nhận thức “bình thường” trong số đông cộng đồng. Chúng tôi lắng nghe những câu chuyện nhỏ của nông dân miền Tây, để thấy những thay đổi “nghịch thiên” của dòng sông, cánh đồng và đời sống con người trên vùng đất này.

“Nước sông ngày càng chảy yếu, sao sạt lở cùng trời?”

Câu hỏi của các nông dân cố cựu miền Tây, chúng tôi muốn đặt lên bàn của những nhà quy hoạch vẫn đang tiếp tục muốn “vây chặt, khép kín” đồng bằng, khác nào hợp sức cùng các đập thủy điện thượng nguồn “đóng những nhát đinh cuối cùng vào nắp quan tài cho dòng Mekong hùng vĩ” (Bryan Eyler- tác giả “Những ngày cuối cùng của dòng Mekong hùng vĩ”).

Những câu chuyện nhỏ của nông dân là trải nghiệm một đời gắn bó máu thịt cùng con nước, cánh đồng, dòng sông và còn là những kinh nghiệm được truyền đời qua nhiều thế hệ để sinh tồn trên vùng đất này qua mấy trăm năm.

Bắt đầu câu chuyện từ mũi Vàm Nao, nơi có hiện tượng “sang nước” từ sông Tiền qua sông Hậu duy nhất trong thủy chế của hệ thống sông ĐBSCL, cũng là hiện tượng độc đáo của sông ngòi trên thế giới. Những con người gắn bó, mưu sinh cả đời trên con sông kỳ lạ này, nên mỗi con nước đi, nước về, nghe hơi gió, âm thanh dòng chảy… là biết được có những gì đang diễn ra dưới đáy sông sâu.

Ông Lê Văn Hai ở xã Mỹ Hội Đông (huyện Chợ Mới- An Giang), gần 90 tuổi, mắt đã mờ lem nhem, vậy mà nghe nhắc chuyện cá bông lau, ông nhỏm dậy kêu sắp nhỏ châm trà.

Câu đầu tiên ông nói như than: “Mấy năm nay hổng nghe ngóng dính cá bông lau, cá hô thì biệt tăm lâu rồi, mà toàn nghe sạt lở.

Mấy đứa thấy hông, chỗ mũi nước xoáy Vàm Nao giờ chảy yếu xìu, cạn ợt hà. Hồi xưa, mùa này ai có gan trời cũng đố dám ngang qua đó. Mà không hiểu sao nước sông ngày càng chảy yếu, mà sạt lở cùng trời?”.

Chỉ tay về dãy cù lao xanh mờ dài gần 20 cây số phía bên kia sông, ông Hai giải thích: “Ngay phía dưới Vàm Nao là cồn Bình Thủy đó, ở phía trên đất lở thì trôi xuống tấp vô đó. Tính từ hồi trước giải phóng tới giờ độ chừng 50 năm, cồn Bình Thủy bồi hơn 5 cây số chớ ít ỏi gì đâu.

Thì cứ hễ lở chỗ này lại bồi chỗ nọ, có mất đi đâu. Chỉ có xáng cạp nó mới xúc đất cát dưới sông đem đi chỗ khác hà”- ông Hai nói nhẹ nhàng cái quy luật đơn giản của dòng sông, mà có lẽ ai cũng hiểu. Chỉ có điều ông không hiểu tại sao có sự thay đổi lạ kỳ như hôm nay.

Hơn 70 năm sống nghề câu lưới trên khúc sông này, từ cái hồi giác khuya nằm nghe cá hô đập nước ngoài sông, áng chừng con nào trăm ký đổ lên mới tốc mùng ôm lưới xuống xuồng, còn nhỏ nhỏ cỡ… 50- 60kg thì làm biếng ngủ tiếp, sáng tính. Ông thuộc khúc sông, luồng lạch như hơi thở của mình. Nhưng giờ mọi thứ đã khác xưa rồi.

Qua xóm cá bông lau bên xã Tân Hòa (huyện Phú Tân), gặp những lão ngư như: Hai Hón, Hai Để, Năm Beo, Sáu Dẹo… chỉ thấy những cái lắc đầu ngao ngán, cá bông lau đã “đứt” 8 năm nay rồi. Giờ lâu lâu nghe chỗ này, chỗ nọ dính đôi ba con 4- 5kg là cùng.

Đâu như cái hồi xưa một đêm xóm này “khẳm xuồng” trên 2 tấn, cá bông lau đội đi bán đầy đường khác nào cá linh non đầu mùa.

Năm Beo cũng nói nước Vàm Nao giờ chảy yếu xìu mà sao lở quá mạng, ông nhớ: “Ngày xưa nước xoáy dữ trời lắm, lọt qua tháng 6 âl mà im trời, kê tai xuống ván nhà là nghe tiếng nước chảy ào ào, ghe xuồng đố dám qua, giờ ôm cây chuối lội qua cái rẹt.

Năm 1990- 1991, tui giăng lưới chiếc xuồng 80 giạ mà không dám chạy ngang, phải vòng xuống búng rồi chạy lên. Ông nào sợ ma là ban đêm hổng dám chạy luôn, nước quặn vướng xuồng sựng máy như có ai níu lại vậy”.

8 năm nay sông Vàm Nao “đứt” cá bông lau, cùng sự tuyệt chủng của hàng chục loài thủy sản, thủy sinh quý giá, cũng mấy năm nay sông chảy yếu xìu mà sao sạt lở cùng trời? Những câu chuyện thấy… nhỏ, nhưng là chỉ dấu những thay đổi lớn bất thường của thủy chế dòng Mekong.

Căn nguyên nó nằm ở đâu?

“Nước sông chảy ngày càng yếu mà sao sạt lở cùng trời?”.
“Nước sông chảy ngày càng yếu mà sao sạt lở cùng trời?”.

Đi dọc theo dự án Bắc Vàm Nao, hệ thống cống đập khá sớm ở đồng bằng, vô giữa đồng Phú An (huyện Phú Tân- An Giang), gặp ông Huỳnh Phước Thọ (63 tuổi), giờ đã về hưu cất cái chòi ở luôn trong ruộng, hồi còn làm nhà nước thì cũng giữ “chân ruộng”, cái nhìn của ông Thọ về con nước, về cánh đồng có khác một chút, sâu hơn một chút và cũng đầy những tâm tư trăn trở, chuyện hồi đó- bây giờ.

Hồi nhỏ làm với ông già khai phá tới 26 mẫu ruộng, giờ gom bớt lại còn 27 công, ông Thọ nói mà không chút hào hứng, bởi lẽ: “Tui tiếc hùi hụi khi nhìn con nước ngoài sông năm nay đổ về đỏ quạch phù sa, hứa hẹn một mùa nước đẹp, vậy mà mấy chú thấy đó, đồng khô rang đang vào vụ lúa Thu Đông xanh rì.

Tui tính kỹ rồi, làm 2 vụ rồi nghỉ 3 tháng cho nước tràn đồng, bớt sản lượng lo tăng chất lượng, lời đủ thứ. Tuy nhiên, đón mùa nước nổi thì phải liên tục, đúng mùa, còn gián đoạn kiểu 3 năm 8 vụ (3 năm xả tràn 1 vụ), rồi 2 năm 5 vụ (2 năm xả tràn 1 vụ), cũng làm đứt gãy, rối loạn nhịp sinh học của các loài cây, con bản địa.

Tiếp tục những trăn trở về mùa nước, con sông, chúng tôi vào vùng lõi ĐTM, đi tìm câu trả lời và nguyên nhân sâu xa của những biến đổi nguy hại đến nguồn nước đồng bằng.

Nhắc lại câu chuyện tiến công vào ĐTM góp phần giải cứu nguy cơ thiếu đói cả nước và nhớ về người đầu tiên ở đồng bằng đã phản đối quyết liệt hệ thống đê bao kiên cố từ chối mùa nước nổi ở miền Tây.

Chúng tôi đến nhà ông Sáu Hoàng (Nguyễn Tấn Hoàng- nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Tháp Mười), là người con của vùng bưng biền Đồng Tháp, ông cũng là người tham gia từ đầu câu chuyện khai phá vùng ĐTM hồi năm 1990.

Cái hồi mà ông Sáu Hoàng nói: “Suốt ngày cứ chạy ngược xuôi lo xẻ mương xổ phèn, rồi bao đê, rồi vỡ bờ. Có bữa ngồi ca nô chạy ngang nhà thấy bà nhà loay hoay một mình với đống lúa vun chùn như núi, chỉ đứng nhóng lên dòm bả một cái rồi đi luôn”.

Giờ thì mùa này, cả cánh đồng được bao kín cho ruộng lúa bạt ngàn. Ông Sáu Hoàng, cho biết: “Ngay trong nhà tôi cũng đã có… hai phe.

Có 20 mẫu, bà nhà mấy năm nay cứ nằng nặc làm hết lúa vụ 3, cứ ý kiến ý cò đòi chính quyền bao đê hết cả khu rừng tràm ngập nước. Giống như bả làm lúa bắt ghiền. Nhiêu đó mà tôi với bả cứ cãi hoài chuyện hàn kín đê bao làm lúa quanh năm hay là cho đất còn… thở, nghỉ ngơi”.

Ở góc nhìn bao quát, ông Sáu Hoàng tâm tình: “Tôi nhớ hoài anh Tám Phong (Nguyễn Thanh Phong- nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp), cũng là người con của quê hương Tháp Mười.

Đặc biệt, những ý kiến anh Tám Phong tại hội thảo tổng kết 30 năm khai thác ĐTM, cho rằng kết quả bao trùm to lớn nhất là chúng ta đã biến vùng đất hoang hóa, 70% đất phèn thành vùng đất thuộc, nhưng ít tốn kém. Năm 1975, sản lượng lúa chỉ khoảng 260.000 tấn, thì năm 1988 đã đạt trên 1 triệu tấn”.

Tuy nhiên, theo ông Sáu Hoàng, rất tiếc, là còn một ý kiến đặc biệt của anh Tám Phong đã không được lưu ý: “Chúng ta không chủ trương làm bờ bao chống lụt triệt để, như ý kiến của đồng chí Lê Huy Ngọ (Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT- lúc bấy giờ), nó không phù hợp và gây nhiều tác hại, không lấy được phù sa và cá tôm. Nó tạo ra nước lụt lớn ở Đồng Tháp”. Giờ thì khi đê bao lớn nhỏ tạo thành hệ thống khép kín, thì ngập lụt diễn ra trên khắp đồng bằng.

Chúng tôi tiếp tục đi dọc theo cung đường hơn 300km ven biển miền Tây, để thấy nguồn nước đồng bằng đang “lưỡng đầu thọ địch” thế nào?

PGS.TS Lê Anh Tuấn (ĐH Cần Thơ), giải thích: Con sông bây giờ rà quét hai bên bờ và lòng sông của nó để tìm vật liệu. Nói cách khác, dòng sông “đói” phù sa quay trở lại gặm nhấm chính phần da thịt của vùng châu thổ mà nó đã tạo ra. Nhưng ngày nay, khi sông Mekong tự khua khoắng dưới bụng mình để tìm vật chất thỏa mãn “cơn đói”, thì nó chẳng tìm được gì nhiều. Con người với đội tàu và xà lan hút cát đã tới trước, nạo vét các mỏ cát sỏi khổng lồ từ đáy sông.

Kỳ 3: Những trăn trở từ bán đảo Cà Mau

Bài, ảnh: NGỌC TRẢNG- PHƯƠNG THÚY