Thuở bé, tôi thích đến nhà ông chơi. Ông tôi được xem là người khá giả so với hàng xóm đương thời. Ba mẫu ruộng và bốn đôi trâu là cả một sản nghiệp.
Thuở bé, tôi thích đến nhà ông chơi. Ông tôi được xem là người khá giả so với hàng xóm đương thời. Ba mẫu ruộng và bốn đôi trâu là cả một sản nghiệp.
Tôi thích cỡi trâu, những con trâu hiền lành, da bóng nhẩy, đen sậm, những sợi lông thưa, to, cứng, nó đâm vào da thịt thấy rát. Hôm nào cỡi lưng trâu, sáng ngày là đùi, bắp chân nổi những nốt đỏ, có nước. Ông tôi bảo: “Mày bị sảy lông trâu!” Bà tôi bảo: “Con bị rôm!”
Nhưng tôi thích, thích nhất là trâu đi từ bến sông lên, tôi ào ra phóng lên lưng. Nó đi thành hàng theo con trâu cái đầu đàn về chuồng. Ngồi trên lưng trâu có cái cảm giác mình cao hơn hẳn và lòng tự hào của trẻ con không thể tả.
Trâu vào chuồng, ông tôi và người làm niệc (cột) trâu lại, bỏ thêm cỏ vào máng, tiếng nhai cỏ nghe xào xạo giòn giòn bên tai...
Ông tôi gom những mớ cỏ thừa, khô của những ngày hôm trước vun thành đống và đốt lên, lửa cháy ông cho thêm phân trâu còn ẩm vào. Khói um lên cả chuồng rồi một vùng trắng đục, lờ đờ. Sương chiều lành lạnh, ông bảo: “Un khói để mòng, bù mắc không cắn trâu”.
Cứ thế, ngày nào tôi lên chơi trễ, từ xa nhìn thấy khói đục mờ ngọn cây là tôi biết trâu đã về chuồng.
Trong vườn, ông tôi có trồng rất nhiều xoài. Có điều lạ là chỉ riêng hai cây xoài cạnh chuồng trâu năm nào cũng đi trái sớm. Khi trời chớm lạnh thì non tháng sau nó chớm bông. Những bông xoài thơm ngai ngái xen mùi khói un, ông bảo: “Năm nay trời lạnh chắc trúng mùa xoài!”
Cây xoài phía sau là xoài thanh ca, giống này giờ tôi không còn thấy nữa- thân nó một vòng tay ôm, cao vút. Nghe nói nó bằng tuổi ba tôi. Giống thanh ca này trái nhỏ, khi chín vỏ vàng rực, ngọt lịm, ăn xong môi vẫn còn thơm. Năm nào cũng vậy, bà tôi cho người hái mang về giú chín, cúng ông bà rồi phân phát cho các cháu. Bọn trẻ chúng tôi ăn xong vẫn còn thèm và để ý số còn lại bà cất ở đâu.
Phía bên phải chuồng trâu là cây xoài tượng. Thân nó ngã dài ra vắt ngang lối đi do một trận giông cách đó mấy năm. Nó sai trái lắm, trái to cả ký.
Cô tôi thường hay dắt bạn về nhà chơi. Món để đãi bạn là xoài tượng chấm nước mắm đường. Mà phải là loại nước mắm tuyệt hảo do ở nhà làm kia- màu của nó sánh và thơm phức, dính vô tay còn phải liếm!
Năm 1968, máy bay địch phóng rốc kết, hướng từ phía chuồng trâu nhưng trượt xuống ao cách cây xoài thanh ca chừng mươi mét. Cá vồ dưới ao chết nổi trắng đầu, con dưới 2kg là ít. Ao cá này dùng để làm món mắm kho cá vồ khi vào mùa, da nó dày mà giòn, ngon hơn vi cá nhiều...
Những trái xoài thanh ca chín vàng ối rụng đầy gốc và cả những trái còn xanh. Ông tôi lọm khọm gom lại.
Trái rốc kết đã làm nên “kỳ tích”: tiêu một ao cá vồ, rụng hết trái hai cây xoài, trên trăm gà tàu nằm liệt địa. Tất cả, ông tôi gom lại để trên cộ lúa đặt bên đường. Người qua kẻ lại, ai thích cứ cầm lấy đem về. Tốp lính đi qua: “Đáng đời nhà Việt cộng!”
Sau giải phóng, phong trào lập vườn mới bắt đầu phát triển. Ông tôi già, đàn trâu phải bán đi. Vườn xoài cũng lão được thay bằng cây khác. Duy chỗ trước kia là cây xoài tượng và xoài thanh ca thì gốc mục lại mọc lên nhiều nấm dai. Nấm hái vào, chẻ nhỏ, ngâm muối rồi xào với thịt hoặc nấu canh tuyệt ngon- chưa hẳn nấm mối đã qua.
Trong vườn nhà bây giờ cũng có xoài sớm- xoài Tứ quí, xoài Thái Lan, xoài Hòa Lộc. Nhưng lại xử lý bằng hóa chất.
Tôi vẫn nhớ cây xoài hoa sớm bởi khói un và giông đầu mùa đi lượm trái...
Lê Minh Hà
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin