Bị đơn cho rằng do con gái đang bị tạm giam nên ký giấy nhận nợ thay, còn nguyên đơn khẳng định đó là tiền bán hàng mà bị đơn mua còn thiếu nên phải có trách nhiệm thanh toán như đã thỏa thuận.
Bị đơn cho rằng do con gái đang bị tạm giam nên ký giấy nhận nợ thay, còn nguyên đơn khẳng định đó là tiền bán hàng mà bị đơn mua còn thiếu nên phải có trách nhiệm thanh toán như đã thỏa thuận.
Trong đơn kiện, ông N.T.B. (ở TP Vĩnh Long) trình bày: Từ năm 2017-2022, vợ chồng bà Đ.T.T.V. có mua các mặt hàng gốm sứ của ông và nợ nhiều lần với tổng số tiền hơn 118 triệu đồng. Ngày 13/5/2021, bà V. ký giấy nợ và hứa vào ngày 15 hàng tháng sẽ trả góp mỗi tháng 3 triệu đồng. Sau khi trả được 12 triệu đồng thì bà V. ngưng, ông B. nhiều lần đòi nhưng vợ chồng bà V. vẫn không trả nên đã gửi đơn khởi kiện, yêu cầu vợ chồng bà V. liên đới trả số tiền còn nợ là 106 triệu đồng.
Bà V. xác nhận có viết biên nhận nợ hơn 118 triệu đồng vào ngày 13/5/2021. Tuy nhiên, số tiền này là do vợ chồng con gái bà nợ ông B. chứ không phải bà. Do lúc đó, con gái bà đang bị tạm giam ở tỉnh Long An, không có khả năng trả nợ nên bà viết nội dung xác nhận nợ thay cho con theo yêu cầu của ông B.. Bà V. chỉ viết nhận nợ thay, không nghĩ phải trả nợ. Hơn nữa, giữa bà với ông B. không có quan hệ làm ăn, cũng không quen biết nên không đồng ý trả 106 triệu đồng theo yêu cầu khởi kiện của ông B..
Từ những tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, HĐXX cho rằng, ông B. yêu cầu vợ chồng bà V. thanh toán 106 triệu đồng tiền mua gốm sứ còn nợ trên cơ sở kết sổ hàng hóa đã được bà V. ký nhận vào ngày 13/5/2021. Số liệu này trùng khớp với số liệu trên sổ sách đôi bên đã giao dịch và ký nhận. Tại tòa, bà V. cho rằng chỉ nhận nợ thay cho vợ chồng con gái nhưng không có chứng cứ chứng minh cho điều này. Phía con gái bà V. có lời khai là còn nợ tiền gốm sứ của ông B. khoảng hơn 100 triệu đồng nhưng không có nhờ mẹ ruột hay bất kỳ ai trả nợ thay, cũng không biết biên nhận nợ ngày 13/5/2021 giữa bà V. với ông B..
Phía ông B. xác định đến thời điểm tòa đưa vụ án ra xét xử thì vợ chồng con gái bà V. không còn nợ khoản tiền mua hàng nào mà chỉ có vợ chồng bà V. nợ ông 106 triệu đồng khi đã cấn trừ các lần vợ chồng bà V. trả lại hàng và trả góp được 12 triệu đồng. Ngoài lời trình bày trên, ông B. còn cung cấp tài liệu, chứng cứ ghi chép nội dung mua bán hàng gốm sứ cho bà V. và chồng bà V. với tên thường gọi là S..
Tại tòa, chồng bà V. thừa nhận mình có tên ngoài là S., phù hợp với sổ sách mà ông B. ghi chép trong các lần giao dịch mua bán hàng gốm sứ với vợ chồng bà V.. Trong số liệu này, chồng bà V. thừa nhận có đem tiền trả cho ông B. 3 lần bằng 6,5 triệu đồng, bà V. trả 2 lần bằng 5,5 triệu đồng. Lời xác nhận của vợ chồng bà V. phù hợp với lời khai của ông B. và biên nhận nợ bà V. đã ký ngày 13/5/2021 nên yêu cầu khởi kiện của ông B. là có cơ sở chấp nhận.
Do đó, HĐXX đã tuyên vợ chồng bà V. phải liên đới thanh toán số tiền hàng gốm sứ còn nợ theo biên nhận kết sổ ngày 13/5/2021 cho ông B. là 106 triệu đồng. Ông B. không yêu cầu tính lãi chậm thanh toán nhưng khi bản án có hiệu lực, nếu vợ chồng bà V. không trả số tiền trên thì phải chịu tiền lãi theo quy định pháp luật.
DIỄM PHƯỢNG