
Do không còn chỗ vay mượn, một nhân viên quỹ tín dụng đã thuê “tài xế” xe ôm cùng mình giả làm vợ chồng chủ đất lừa người khác lấy tiền trả nợ.
Do không còn chỗ vay mượn, một nhân viên quỹ tín dụng đã thuê “tài xế” xe ôm cùng mình giả làm vợ chồng chủ đất lừa người khác lấy tiền trả nợ.
Năm 2007, Vương Hồng Cúc (SN 1981- ngụ ấp Bình Thành, xã Trung Hiếu- Vũng Liêm) được nhận vào làm việc cho Quỹ tín dụng Dariu- phụ trách cho vay và thu nợ địa bàn 2 xã Trung Hiếu và Hiếu Phụng (Vũng Liêm).
![]() |
Tại tòa, bị cáo Cúc cúi đầu xấu hổ khi nhắc lại những việc làm sai trái.
|
Trong thời gian làm việc, do có một số người vay không khả năng đóng lãi và trả nợ gốc theo nội dung hợp đồng, Cúc sợ mất doanh số sẽ bị đuổi việc vì không hoàn thành nhiệm vụ nên đã vay nóng bên ngoài bù vào.
Sau đó, các hộ này không có tiền trả lại nên Cúc không thanh toán nợ cho những người đã vay dẫn đến “lãi mẹ đẻ lãi con”, nợ ngày một chất chồng.
Do không còn đường xoay trở nên khi chị Huỳnh Thị Kim Xuyến (SN 1976- ngụ ấp Hiếu Hiệp, xã Hiếu Phụng)- là một trong những con nợ của Quỹ tín dụng Dariu đến tìm Cúc hỏi vay tiếp 3 triệu đồng, Cúc đồng ý cho vay với điều kiện chị Xuyến phải giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ), bản chính hộ khẩu, chứng minh nhân dân (CMND) cho Cúc giữ làm tin thế chấp.
Vì muốn có tiền trả nợ nên chị Xuyến đồng ý đưa GCN QSDĐ do chồng là anh Nguyễn Văn Thành đứng tên cùng hộ khẩu, CMND của cả 2 vợ chồng cho Cúc. Sau khi có được các giấy tờ trên, Cúc nhờ một “cò” cho vay ở xã Trung Hiếu giới thiệu gặp ông Nguyễn Hải Chinh ở Phường 1 (TP Vĩnh Long) để vay 45 triệu đồng bằng hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ của anh Thành cho ông Chinh.
Để che đậy hành vi gian dối nêu trên, Cúc thuê một thanh niên chạy xe ôm (chưa xác định họ tên, địa chỉ) giả làm anh Thành, còn Cúc “đóng vai” chị Xuyến cùng đến Văn phòng công chứng Thanh Thanh trên đường 2 Tháng 9 (Phường 1) công chứng việc chuyển nhượng QSDĐ cho ông Chinh và hợp đồng này đã được công chứng viên Nguyễn Văn Thanh công chứng.
Ký hợp đồng xong, ông Chinh giao cho Cúc 45 triệu đồng. Cúc đưa lại ông Chinh 2,5 triệu đồng “tiền lãi tháng đầu”, trả cho “cò” 2,5 triệu đồng, còn lại 40 triệu đồng Cúc sử dụng vào việc trả nợ.
Đến ngày 7/3/2011, do Cúc không thanh toán số tiền đã vay đúng hạn nên ông Chinh sang tên GCN QSDĐ của anh Thành. Tuy nhiên, khi tìm đến địa điểm có thửa đất trên, ông Chinh ngỡ ngàng phát hiện vợ chồng anh Thành, chị Xuyến mới là chủ đất thật sự, còn “cặp vợ chồng” ký hợp đồng vay của ông 45 triệu đồng giờ chẳng rõ ở đâu. Biết đã bị lừa, ông Chinh liền trình báo công an.
Quá trình điều tra, Công an TP Vĩnh Long xác định Cúc đã thực hiện hành vi lừa ông Chinh chiếm đoạt tiền. Qua nhận diện trên ảnh, ông Chinh cũng khẳng định người giả mạo chị Xuyến là Cúc. Ngày 6/8/2013, cơ quan điều tra Công an TP Vĩnh Long đã khởi tố vụ án và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Cúc.
Quá trình điều tra cũng như trước tòa, Cúc thừa nhận việc thuê người khác cùng mình giả mạo vợ chồng anh Thành lừa ông Chinh chiếm đoạt tiền là sai nhưng “không biết luật quy định như thế là phạm tội lừa đảo phải ở tù, xin HĐXX cho hưởng án treo để có điều kiện nuôi dạy 2 con còn nhỏ”.
Theo HĐXX, hành vi của bị cáo đã ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người và trật tự địa phương nên việc cho bị cáo hưởng án treo sẽ không đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục phòng ngừa chung mà cần dành cho bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thật thà khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, thiệt hại đã được gia đình khắc phục,… nên HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt và tuyên bị cáo Cúc 6 tháng tù giam tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Đối với công chứng viên Nguyễn Văn Thanh thừa nhận có sai sót trong việc kiểm tra giấy tờ công chứng dẫn đến hợp đồng bị lừa dối nên bản án sơ thẩm đã kiến nghị cơ quan chủ quản Văn phòng công chứng Thanh Thanh có biện pháp xử lý theo quy định.
Tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự quy định tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như sau: “Người nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
|
Bài, ảnh: DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin