Lúa Đông xuân ở các tỉnh, thành ĐBSCL đang vào cuối vụ, diện tích thu hoạch ước khoảng 1,2/1,55 triệu héc-ta. Việc thu mua 1 triệu tấn gạo tạm trữ thời gian qua cũng được đẩy mạnh hoàn tất trong tháng 3 vừa rồi.
Lúa Đông xuân ở các tỉnh, thành ĐBSCL đang vào cuối vụ, diện tích thu hoạch ước khoảng 1,2/1,55 triệu héc-ta. Việc thu mua 1 triệu tấn gạo tạm trữ thời gian qua cũng được đẩy mạnh hoàn tất trong tháng 3 vừa rồi.
Song, nhiều ý kiến băn khoăn việc mua tạm trữ giống như giải pháp tình thế. Để lúa gạo phát triển ổn định cần cách làm mới căn cơ hơn.
Đề xuất xóa tạm trữ
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), sau khi triển khai mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo đã đẩy giá lúa hàng hóa ở ĐBSCL tăng lên từ 5.200-5.300 đồng/kg (lúa khô loại thường) và từ 5.400-5.500 đồng/kg (lúa khô hạt dài), đảm bảo nông dân có lãi.
Đầu ra hạt lúa được khơi thông so với thời điểm đầu vụ Đông xuân, song nhiều người vẫn trăn trở về cơ chế thu mua tạm trữ. Ông Lê Minh Đức, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Long An, cho rằng: Mùa vụ canh tác, diện tích, sản lượng lúa… gần như đã biết trước.
Tại sao năm nào chúng ta cũng phải vất vả với chuyện mua tạm trữ để nâng giá lúa cho nông dân. Điều này cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh lương thực và ngành thương mại chưa chủ động tốt đầu ra.
Mặt khác, thời điểm triển khai mua tạm trữ, phân bổ sản lượng, giá sàn… cũng nảy sinh nhiều ý kiến trái nhau. Nếu như VFA cho rằng việc mua tạm trữ từ ngày 20-2 trở đi là hợp lý vì ĐBSCL vào thu hoạch rộ.
Song, lãnh đạo các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp nói triển khai quá trễ, dẫn đến lúa rớt giá gây thiệt cho nông dân (!?). Ông Lê Minh Hoan, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp nêu ý kiến: “Nên xem việc mua tạm trữ là giải pháp ngắn hạn. Về lâu dài cần cái nhìn dài hạn căn cơ hơn để giải quyết tốt bài toán sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu gạo”.
Ảnh: LÝ ANH LAM. |
Đồng tình với quan điểm này, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) cho biết, Nhà nước không cần hỗ trợ lãi suất 0% để các doanh nghiệp mua gạo tạm trữ như hiện nay.
Bởi từng doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu gạo thì phải tự chủ nguồn nguyên liệu cho chính mình và cần có trách nhiệm với nông dân. Nếu kéo dài cơ chế tạm trữ sẽ khiến một số doanh nghiệp ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước.
Thay vì hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp mua gạo tạm trữ thì nên hỗ trợ trực tiếp cho nông dân thông qua những mô hình khác sẽ hiệu quả hơn.
Liên kết sản xuất và tiêu thụ
Hạn chế cơ bản của sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu gạo lâu nay là thiếu hệ thống sấy, kho trữ, thiếu liên kết và chưa có thương hiệu gạo quốc gia. Do đó cứ mãi loay hoay xử lý tình thế, còn nông dân luôn phập phồng chuyện lúa rớt giá khi vào thu hoạch rộ.
Để nâng cao chuỗi giá trị hạt gạo, ông Huỳnh Thế Năng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang khẳng định, mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cho thấy hướng đi đúng để phát triển lúa gạo hiện đại, bền vững. Nông dân từ sản xuất riêng lẻ, manh mún, được quy tụ lại thành vùng sản xuất lớn được doanh nghiệp hỗ trợ các sản phẩm đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu… giá cả ổn định, đảm bảo chất lượng.
Quá trình canh tác có kỹ sư giúp về chuyên môn, khi thu hoạch được bao tiêu đầu ra. “Cánh đồng mẫu lớn” không chỉ giảm được chi phí đầu tư, tăng năng suất, nâng cao chất lượng hạt gạo… mà còn là yếu tố quan trọng để xây dựng thương hiệu gạo, truy xuất được nguồn gốc nhờ quản lý chặt đầu vào, đầu ra.
Mô hình “cánh đồng mẫu lớn” là hướng đi bền vững cho lúa gạo Việt Nam. Ảnh: NGUYỄN PHÚ. |
Tổng Giám đốc AGPPS Huỳnh Văn Thòn chứng minh, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ gạo khó tính nhất trên thế giới. Thế nhưng, từ mô hình “cánh đồng mẫu lớn” do AGPPS đầu tư đã đáp ứng được 593 chỉ tiêu về chất lượng gạo, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, lượng phân bón, kim loại nặng, phân tích ADN của gạo để xác định biến đổi gen; kiểm tra hệ thống xay xát, sấy, nhà kho, thiết bị…
Đưa gạo Việt vào thị trường Nhật Bản với giá cao, mở ra hướng đi mới đầy triển vọng. Theo ông Thòn, nếu chúng ta quyết tâm, mạnh dạn thay đổi cách làm bài bản, căn cơ hơn, liên kết chặt với nhau thì sẽ thành công. Và giá trị hạt gạo sẽ được nâng lên, lợi nhuận mà nông dân thu được từ cây lúa cũng nhiều hơn.
Cánh đồng mẫu lớn ở xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy với 107ha mới thực hiện vào vụ Đông xuân năm nay nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công.
Dù đầu ra còn gặp một số trở ngại nhưng cái được là liên kết nông dân lại để sản xuất theo quy trình, sử dụng cùng một giống lúa chất lượng cao, được hỗ trợ kỹ thuật, mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với giá rẻ, đưa cơ giới vào sản xuất từ khâu làm đất đến thu hoạch.
Ông Trần Ngọc Thể, Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hậu Giang, cho biết: Kết quả thực hiện theo mô hình cánh đồng mẫu ở xã Vị Thanh năng suất lúa đạt 7,4 tấn/ha, giá thành sản xuất chỉ 3.343 đồng/kg, lợi nhuận gần 13 triệu đồng/ha, tỷ lệ lãi so với đầu tư là 52%.
Còn sản xuất theo dạng nhỏ lẻ, cho năng suất chỉ đạt 7,2 tấn/ha, lợi nhuận trên 6,9 triệu đồng/ha và giá thành lên đến 3.872 đồng/kg.
Theo ông Thể, khi nông dân sản xuất theo cánh đồng mẫu lớn thì tiết kiệm được nhiều chi phí từ giống, phân bón, thuốc BVTV, nhưng được chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến nên năng suất lúa tăng, đây được xem là một bước đi khá bền vững cho người trồng lúa.
Nông dân Huỳnh Thanh Hùng, ở ấp 3, xã Vị Thanh - người trực tiếp tham gia cánh đồng mẫu, cho biết: “Nếu như những năm trước thì sạ lan, bón phân không cân đối nên chi phí cao, còn vào mô hình thì sạ hàng, sản xuất theo quy trình nên năng suất, lợi nhuận tăng lên”.
Theo ông Hùng, chỉ còn vướng ở khâu đầu ra, nếu lúa ở cánh đồng mẫu được bao tiêu hoàn toàn và thu mua kịp thời với giá từ bằng tới cao hơn giá thị trường thì cánh đồng mẫu ở xã không dừng lại ở mức hiện tại.
Theo tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng đã có nhiều thành công trong sản xuất lúa nên năng suất, sản lượng hàng năm đều tăng, nhưng người trồng lúa chưa vui vì thu nhập còn thấp do khâu tổ chức sản xuất, diện tích nhỏ, sản xuất nhiều giống lúa không có thương hiệu.
Mô hình “nông hộ nhỏ, cánh đồng lớn” được xem là một hướng đi mới cho người trồng lúa để kết nối người sản xuất với doanh nghiệp cùng ngồi trên con thuyền để chia sẻ lợi nhuận, tạo thành chuỗi ngành hàng với quy mô lớn.
Tuy nhiên, thực tế tại cánh đồng mẫu lớn xã Vị Thanh, doanh nghiệp đầu vào thì muốn tham gia, còn doanh nghiệp đầu ra thì chưa mặn mà.
Cánh đồng mẫu lớn có duy trì được hay không là do ở đầu ra của sản phẩm. Tiến sĩ Bảnh cũng đặt vấn đề tại buổi tổng kết dự án hỗ trợ cánh đồng mẫu “Chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo tỉnh Hậu Giang” ở xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy vào cuối tháng 2 vừa qua, vì sao Nhà nước có chính sách mua tạm trữ lúa gạo, nhưng doanh nghiệp không mua lúa của nông dân cánh đồng mẫu ?
Tiến sĩ Lê Văn Bảnh cho rằng, chỉ có tăng thu nhập, trong đó có việc giải quyết đầu ra cho người trồng lúa là điều kiện tiên quyết hướng tới xây dựng thương hiệu hạt gạo Hậu Giang.
Hiện mô hình “cánh đồng mẫu lớn” vụ Đông xuân 2012-2013 được nâng lên 76.559ha. Song, diện tích trên còn khiêm tốn so với 1,55 triệu héc-ta. Nhiều ý kiến đề xuất đã đến lúc cần chế tài đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Theo đó, quy định từng doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu từ 5.000ha trở lên, gắn với nông dân. Ai kinh doanh theo kiểu mua đứt - bán đoạn như lâu nay thì không cho tham gia xuất khẩu gạo.
Một khi mô hình “cánh đồng mẫu lớn” được nhân rộng, gắn chặt liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thì vấn đề tiêu thụ lúa gạo sẽ được giải quyết ổn thỏa, không còn phải vất vả thu mua tạm trữ để chờ giá như hiện nay…
Theo Hậu Giang Online
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin