Kiến nghị cơ chế nguồn lực cho địa phương khó khăn

11:07, 04/12/2025

Phát biểu thảo luận tại Tổ vào chiều 3/12, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Trịnh Minh Bình- đại biểu chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long thống nhất rất cao việc Quốc hội ban nghị quyết về phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2035.

Đại biểu Trịnh Minh Bình phát biểu thảo luận tại Tổ chiều ngày 3/12.
Đại biểu Trịnh Minh Bình phát biểu thảo luận tại Tổ chiều ngày 3/12.

Đại biểu Trịnh Minh Bình nhấn mạnh, nếu nghị quyết được thông qua sẽ mang lại nhiều tác động tích cực: góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; giảm nghèo bền vững và hạn chế tái nghèo; tăng cường phát triển kinh tế nông thôn và tiêu dùng nội địa; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn; nâng cao năng lực sản xuất và hội nhập của nông dân; góp phần ổn định xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh; tăng thu ngân sách địa phương và sức mạnh tài chính cộng đồng; đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Đại biểu cũng thống nhất cao việc dự thảo nghị quyết đặt ra hệ mục tiêu đến năm 2030 gồm 6 nhóm mục tiêu và đến năm 2035 đạt 4 mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, để hoàn thiện dự thảo nghị quyết, đại biểu nêu một số ý kiến góp ý chi tiết như sau:

Về mục tiêu thu nhập nông thôn

Đối với mục tiêu thứ nhất của dự thảo: Thu nhập bình quân người dân nông thôn đến năm 2030 phấn đấu tăng gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020; và tương tự, đến năm 2035 phấn đấu thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 1,6 lần so với năm 2030, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo (CQST) bỏ cụm từ “phấn đấu”.

Theo đại biểu, nếu chỉ dùng từ “phấn đấu” sẽ phát sinh nhiều hạn chế trong triển khai:

Thiếu tính ràng buộc pháp lý và trách nhiệm giải trình: “Phấn đấu” mang tính khuyến khích, không bắt buộc, nên khó xác định trách nhiệm cụ thể khi không đạt mục tiêu. Các cơ quan, đơn vị có thể lý giải đây chỉ là mục tiêu “cố gắng”, dẫn đến giảm áp lực hoàn thành.

Dẫn đến xu hướng làm cho có - không quyết liệt: Khi chỉ tiêu không mang tính bắt buộc, địa phương dễ triển khai kiểu “trung bình”, thiếu giải pháp đột phá; thiếu cam kết mạnh mẽ và động lực sáng tạo, huy động nguồn lực.

Khó đánh giá và đo lường kết quả: Chỉ tiêu “phấn đấu” thường không có tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, dễ dẫn tới báo cáo hình thức, khó xác định mức độ hoàn thành thực chất.

Dễ sinh tư tưởng ỷ lại hoặc né tránh trách nhiệm: Một số đơn vị có thể “kéo lùi” mục tiêu, lấy lý do khách quan để không hoàn thành; khi kết quả thấp cũng khó xử lý trách nhiệm vì mục tiêu không ràng buộc.

Giảm hiệu lực điều hành và sự quyết tâm trong hệ thống chính trị: Cấp dưới khó có động lực bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện quyết liệt nếu cấp trên chỉ nêu “phấn đấu”, làm giảm tính đồng bộ giữa bộ, ngành, địa phương.

Không tạo sức ép về nguồn lực hoàn thành: “Phấn đấu” thường không gắn với ngân sách, nhân lực, thời gian cụ thể; dễ chậm tiến độ, trễ mục tiêu hoặc thiếu nguồn lực thực hiện.

Vì vậy, đại biểu đề nghị thay “phấn đấu” bằng “đạt”, bảo đảm mục tiêu mang tính bắt buộc, hiệu quả và khả thi hơn.

Giải pháp để đạt mục tiêu tăng thu nhập 2030-2035

Về nội dung thực hiện mục tiêu thu nhập bình quân nông thôn tăng 2,5-3 lần so với năm 2020 vào năm 2030, và tăng ít nhất 1,6 lần so với năm 2030 vào năm 2035, đại biểu cho rằng Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương phải triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp thì mới có thể đạt được chỉ tiêu đến năm 2035.

Để góp phần thực hiện tốt mục tiêu này, đại biểu đề nghị khi Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn thực hiện cần quan tâm các nội dung trọng tâm:

Thứ nhất, tái cơ cấu mạnh mẽ nông nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất quy mô lớn, chuyên canh, liên kết vùng và liên kết chuỗi giá trị. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, công nghệ sinh học, tưới thông minh, truy xuất nguồn gốc và chế biến sâu; tập trung phát triển vùng sản xuất chủ lực cấp quốc gia, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng thị trường quốc tế.

Thứ hai, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, tạo nguồn thu nhập phi nông nghiệp. Muốn tăng thu nhập bền vững, nông dân cần nhiều nguồn sinh kế. Nhà nước ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nông thôn, logistics nông nghiệp, du lịch cộng đồng, thương mại và dịch vụ chất lượng cao; hỗ trợ làng nghề truyền thống đổi mới công nghệ, chuẩn hóa OCOP, tham gia thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ ba, đột phá đào tạo nghề, chuyển dịch lao động và phát triển nguồn nhân lực nông thôn. Thu nhập chỉ tăng khi năng suất lao động tăng. Tổ chức đào tạo nghề gắn nhu cầu doanh nghiệp; hỗ trợ đào tạo ngắn hạn cho lao động; bồi dưỡng kỹ năng số, thương mại điện tử, sản xuất an toàn, chuẩn hóa quốc tế; thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo nông thôn.

Thứ tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư ở nông thôn. Đầu tư đồng bộ giao thông, thủy lợi thông minh, điện - nước - viễn thông, internet băng rộng, logistics, kho lạnh, trung tâm phân phối nông sản…; cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí cho doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư công trong nông nghiệp – nông thôn.

Thứ năm, ưu tiên phát triển thị trường và hội nhập quốc tế cho nông sản. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản chủ lực; tăng đàm phán mở cửa thị trường; áp dụng tiêu chuẩn EU, Mỹ, Nhật Bản; phát triển mạnh thương mại điện tử nông sản, coi thị trường rộng mở là động lực trực tiếp nâng thu nhập nông dân.

Thứ sáu, hoàn thiện thể chế, chính sách để bảo đảm quyền lợi và năng lực sản xuất của nông dân. Chú trọng tích tụ, tập trung ruộng đất; tín dụng ưu đãi, bảo hiểm nông nghiệp; phát triển hợp tác xã kiểu mới; hỗ trợ nông dân tham gia chuỗi giá trị, minh bạch thông tin thị trường; coi nông dân là chủ thể trung tâm của nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.

Cơ chế hỗ trợ Trung ương

Tại Điều 3 dự thảo, giao HĐND và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch và cân đối, bố trí ngân sách địa phương, huy động các nguồn lực hợp pháp khác để thực hiện 10 mục tiêu của nghị quyết trên địa bàn, đại biểu đánh giá mục tiêu nâng thu nhập nông thôn lên 2,5-3 lần so với năm 2020 và tăng 1,6 lần so với năm 2030 là mục tiêu rất lớn, đầy ý nghĩa, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, cải thiện đời sống nhân dân và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.

Tuy nhiên, đại biểu băn khoăn vì nhiều địa phương, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn đang chịu thách thức lớn về nguồn lực; nhiều tỉnh không đủ khả năng tự cân đối ngân sách, phải dựa chủ yếu vào hỗ trợ từ ngân sách Trung ương. Trong khi đó, chương trình lại yêu cầu địa phương tự xây dựng kế hoạch, cân đối ngân sách và huy động nguồn lực.

Nếu không có cơ chế phù hợp, nguy cơ triển khai hình thức, “đặt mục tiêu nhưng triển khai không đạt” là khó tránh khỏi. Vì vậy, đại biểu đề nghị CQST quan tâm bổ sung các nội dung trọng tâm sau:

Thứ nhất, có cơ chế hỗ trợ Trung ương theo hướng “mục tiêu bắt buộc và hỗ trợ có điều kiện”. Với tỉnh nghèo, ngân sách hạn chế: Trung ương quy định chỉ tiêu bắt buộc phù hợp từng nhóm địa phương; hỗ trợ có điều kiện dựa trên đề án khả thi, có đối ứng và giải pháp thực chất; tạo môi trường “cạnh tranh chính sách”, thúc đẩy sáng tạo, tránh ỷ lại, bảo đảm công bằng vùng miền.

Thứ hai, đổi mới phân bổ ngân sách Trung ương từ “bình quân” sang “theo kết quả”. Ngân sách hỗ trợ phân bổ chủ yếu dựa vào kết quả đầu ra như tăng thu nhập, tăng giá trị sản xuất, hiệu quả mô hình, chuyển dịch cơ cấu; đồng thời tính tới đặc thù khó khăn. Cơ chế này khuyến khích hiệu quả, tránh dàn trải, giảm lập kế hoạch hình thức.

Thứ ba, huy động mạnh khu vực tư nhân và doanh nghiệp. Nhà nước cần ưu đãi đất đai, thuế, thủ tục cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; khuyến khích đầu tư hạ tầng nông nghiệp, logistics, kho lạnh, chế biến; thu hút doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi giá trị. Khi doanh nghiệp tham gia mạnh, ngân sách nhà nước không phải gánh toàn bộ chi phí.

Thứ tư, địa phương tập trung nguồn lực, tránh dàn trải, chọn đúng khâu đột phá. Tỉnh nghèo càng phải tránh đầu tư nhỏ lẻ; lựa chọn 4–5 sản phẩm chủ lực, 3–4 vùng sản xuất tập trung; đầu tư trọng điểm vào hạ tầng, kỹ thuật, xúc tiến thị trường. Làm ít nhưng đến nơi đến chốn sẽ tạo hiệu quả thực chất, nâng thu nhập rõ rệt.

Thứ năm, áp dụng cơ chế đối ứng linh hoạt cho tỉnh khó khăn. Cho phép đối ứng thấp hơn hoặc đối ứng bằng đất đai, thủ tục, giải phóng mặt bằng, hạ tầng thay vì tiền, giúp tỉnh yếu vẫn tham gia được chương trình, tránh bị bỏ lại phía sau.

Thứ sáu, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý và sản xuất. Đây là giải pháp chi phí thấp nhưng hiệu quả lớn, nhất là với địa phương khó khăn: xây dựng bản đồ số nông nghiệp; quản lý vùng trồng, vùng nuôi bằng mã số; ứng dụng thương mại điện tử; đào tạo kỹ năng số cho nông dân và hợp tác xã; rút ngắn khoảng cách vùng miền, mở rộng thị trường.

Thứ bảy, tăng cơ chế giám sát – đánh giá theo kết quả, gắn trách nhiệm người đứng đầu. Công khai kết quả tăng thu nhập theo từng xã, phường; HĐND giám sát độc lập; báo cáo có số liệu kiểm chứng; gắn đánh giá cán bộ, khen thưởng – kỷ luật với kết quả thực chất, không dựa vào báo cáo hình thức.

Kết thúc phần phát biểu, đại biểu khẳng định mục tiêu nâng thu nhập nông thôn tăng 2,5-3 lần so với năm 2020 và tăng 1,6 lần so với năm 2030 là mục tiêu chiến lược, hoàn toàn khả thi nếu áp dụng đúng cơ chế, tăng cường phân cấp gắn trách nhiệm giải trình, phát huy nguồn lực xã hội và bảo đảm tính thực chất trong triển khai. Đại biểu tin rằng với các giải pháp nêu trên, các địa phương khó khăn cũng có thể đóng góp vào thành công chung, đưa đời sống người dân nông thôn phát triển bền vững và giàu đẹp hơn trong giai đoạn tới.

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 3/12, Quốc hội thảo luận ở Tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số 136/2024/QH15 về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; Chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Vinh - Thanh Thủy.

SƠN NAM (ghi)

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh