Mùa khô nắng nóng, lại chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn, sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn. Để đảm bảo an toàn cho cây trồng, nhất là vụ Hè Thu, các biện pháp kỹ thuật chăm sóc cây trồng sau đây cần quan tâm thực hiện.
Bón phân cân đối để tăng cường sức đề kháng của cây trồng, chống chịu hạn mặn. |
(VLO) Mùa khô nắng nóng, lại chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn, sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn. Để đảm bảo an toàn cho cây trồng, nhất là vụ Hè Thu, các biện pháp kỹ thuật chăm sóc cây trồng sau đây cần quan tâm thực hiện.
Chủ động nguồn nước tưới
Theo các chuyên gia, nước là yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất cây trồng trong mùa khô. Sở Nông nghiệp- PTNT khuyến cáo các địa phương và nông dân cần thường xuyên theo dõi, cập nhật nguồn nước, chất lượng nước phục vụ sản xuất;
tăng cường nạo vét, dự trữ nước trong các kinh mương, áp dụng các biện pháp tích, trữ nước tối đa trước khi mùa khô tới và sử dụng hiệu quả bằng phương pháp tưới tiết kiệm (biện pháp tưới ngập, khô xen kẽ); củng cố hệ thống đê bao, bờ bao quanh vườn, ruộng để ngăn ngừa nước mặn xâm nhập.
Đối với cây lúa cần điều tiết nước khoa học, hợp lý, tiết kiệm ngay từ đầu vụ, đảm bảo đủ nước theo nhu cầu từng giai đoạn phát triển của cây lúa, nhất là giai đoạn làm đòng và trổ bông.
Quản lý nước trong ruộng lúa bằng cách tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác như: tưới ngập- khô xen kẽ, “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI) tiết kiệm nước.
Để lấy nước an toàn không bị nhiễm mặn, đối với cây lúa vụ Hè Thu, Sở Nông nghiệp- PTNT khuyến cáo, trường hợp cần lấy nước tưới cho ruộng lúa ở thời điểm khi nước sông độ mặn trên 1‰ cần tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn địa phương.
Do cây lúa chịu mặn yếu (khả năng chịu mặn từ 1,4 - 2‰) nên những vùng bị nhiễm mặn trên 3‰ tuyệt đối không xuống giống.
Ở giai đoạn đòng trổ, lúa rất nhạy cảm với mặn, độ mặn khoảng 1,5‰ có thể làm lép hạt lúa, tốt nhất không nên đưa nước mặn hơn 1‰ vào ruộng, nếu cần chỉ bổ sung nước đủ ẩm cho lúa.
Đối với rau màu, tiêu chuẩn độ mặn thấp hơn lúa, tốt nhất là lấy nước ngọt trữ trong ao hồ, mương vũng để tưới. Khi tưới nước cho cây cần kiểm tra độ mặn (trước, trong và sau khi bơm).
Dự trữ nước ngọt trong ao, mương để tưới cho giai đoạn bị nhiễm nước mặn, tranh thủ những lúc có nước ngọt để bơm nước vào ruộng (thời điểm con nước kém hoặc lúc thủy triều xuống thấp…
Đối với cây ăn trái, vùng có nguy cơ bị nhiễm mặn, cần vận hành công trình thủy lợi hợp lý để lấy nước; đo độ mặn trước mỗi lần lấy nước, không tưới nước khi có độ mặn trên 1‰ cho cây.
Đối với một số cây ăn trái mẫn cảm với mặn như sầu riêng, chôm chôm, thanh long, khóm, vú sữa, măng cụt,... không tưới nước khi có độ mặn trên 0,5‰ và luôn giữ nước trong mương vườn từ 20- 30cm để ém phèn, không để mương vườn bị khô nứt nẻ.
Trong thời gian nhiễm mặn cần áp dụng các kỹ thuật tưới nước tiết kiệm, giúp cho cây không bị héo và mặt đất không bị khô nứt.
Xử lý cây trồng bị nhiễm mặn, quản lý dịch hại
Bên cạnh quản lý tốt nguồn nước tưới, xử lý khi cây trồng bị nhiễm mặn khô hạn, tăng cường sức đề kháng và quản lý tốt dịch hại cây trồng là rất cần thiết.
Khi phát hiện cây lúa có biểu hiện bị ngộ độc mặn (cháy chóp lá, khô đọt non, chết cây) phải khẩn trương bón vôi CaO, CaSO4 với lượng thích hợp để giải độc.
Sau bón vôi khoảng 2- 3 đêm thì rút cạn nước ruộng nhằm đưa lượng mặn trong ruộng ra ngoài và thay nước mới. Nếu ruộng bị khô cần phải bơm nước vào ngập ruộng rồi mới rải vôi.
Nếu không sử dụng vôi thì có thể tháo cạn nước ruộng, sau đó bơm nước trở lại ruộng đồng thời bón Super Humic kết hợp với bón urea hoặc DAP. Khoảng 3 ngày sau kiểm tra thấy lúa ra lá và rễ mới thì chứng tỏ lúa đã phục hồi.
Tăng cường khả năng chịu mặn cho lúa bằng biện pháp kỹ thuật như: bón phân qua lá, phân hữu cơ, phân lân, kali (lưu ý không nên sử dụng phân KCl), silic cho cây trồng, sử dụng urea chậm tan để chống thất thoát đạm, nên bón bổ sung phân sulphate kali (K2SO4) trong giai đoạn đầu.
Khi cây ăn trái bị nhiễm mặn cần bón bổ sung phân sulphate kali (K2SO4), vôi bột lượng 500- 1.000 kg/ha (tùy vào loại đất).
Nếu hạn, mặn kéo dài phun thêm phân bón lá và chế phẩm tăng cường khả năng chống chịu mặn; phân trung vi lượng chứa canxi, magie, silic,… giúp tăng khả năng đề kháng của cây.
Không nên tiến hành rải vụ, trồng mới trong thời gian hạn hán nếu nguồn nước ngọt không đảm bảo cung cấp đầy đủ cho cây.
Đồng thời chủ động sử dụng tối đa các nguồn vật liệu hữu cơ (rơm rạ, cỏ khô, lá cây khô, lục bình,…) hoặc màng phủ nông nghiệp tủ gốc để giữ ẩm cho cây. Chú ý cắt tỉa cành, tạo tán gọn, tỉa bớt nụ, hoa để hạn chế bốc thoát hơi nước.
Đối với rau màu, cần tích cực chăm sóc theo quy trình kỹ thuật để giúp cho các loại cây rau màu sinh trưởng, phát triển tốt, vượt qua những điều kiện bất lợi của thời tiết. Theo dõi, kiểm soát các loại dịch hại trên cây rau màu để phòng trị kịp thời, hiệu quả.
Các loại dịch hại quan trọng trên cây rau màu như: sâu đục củ khoai lang, sâu xanh da láng trên hành lá, nhóm bọ trĩ, nhện đỏ trên bầu bí dưa, sâu tơ và rầy nhảy trên cải các loại,… Đây là các đối tượng gây hại quan trọng và khó phòng trừ.
Vì vậy ngoài việc phòng trị theo nguyên tắc “4 đúng”, cần áp dụng các biện pháp khác như: bắt bằng tay, sử dụng các loại bẫy màu, bẫy dẫn dụ để giảm mật số dịch hại ngay từ đầu vụ.
Bên cạnh bị ảnh hưởng của hạn mặn ở đầu vụ, cây trồng vụ Hè Thu còn bị mưa giông ở thời kỳ cuối vụ, vì vậy cần quan tâm đến việc chống chịu đổ ngã do gió mạnh, mưa lớn vào đầu mùa mưa gây ra đối với lúa trong thời kỳ đòng trổ hoặc chín chuẩn bị thu hoạch.
Bài, ảnh: TRUNG CHÁNH
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin