Trong sản xuất lúa, giống luôn giữ vai trò quan trọng để đảm bảo năng suất, chất lượng. Và để duy trì chất lượng gạo xuất khẩu, yêu cầu về chất lượng hạt giống ngày càng khắt khe, chỉ có con đường ứng dụng khoa học- công nghệ một cách bài bản, đồng bộ mới giúp nâng cao chất lượng lúa giống, để qua đó nâng tầm hạt gạo Việt Nam.
![]() |
Ngành nông nghiệp luôn nỗ lực tìm giống lúa mới để nâng cao chất lượng lúa. |
Vai trò quan trọng của giống lúa
Trong sản xuất, giống lúa góp phần quan trọng thực hiện tái cấu trúc ngành hàng lúa gạo. Các giống mới ngắn ngày còn giúp tăng vụ và thay đổi cơ cấu cây trồng, nhờ đó nâng cao sản lượng và giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích trồng. Thời gian qua, nhiều giống như Đài thơm 8, Hương Châu 6, RVT đã chứng minh chất lượng vượt trội, đủ sức cạnh tranh quốc tế.
Với giống đạt chuẩn, nông dân vừa giảm chi phí phân bón, thuốc BVTV, giúp tăng năng suất (10-15% với lúa lai, 8-10% với lúa thuần), nâng thu nhập nông dân thêm 15-16 triệu đồng/ha/năm. Bộ giống thơm, gạo đặc sản cũng đang góp phần quan trọng xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.
Thực tiễn sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL cho thấy, khi nông dân sử dụng giống lúa kém chất lượng, không được sản xuất và kiểm soát nghiêm ngặt theo quy trình sản xuất giống các cấp, thì có nguy cơ suy giảm chất lượng khiến giá bán sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí bị từ chối thu mua để xuất khẩu.
Dẫn đến nguy cơ bùng phát lúa cỏ; tăng chi phí sản xuất, tốn kém chi phí, gây hại cho sức khỏe và môi trường, sản phẩm làm ra khó đáp ứng tiêu chuẩn an toàn. Còn có thể gây xói mòn uy tín thương hiệu gạo Việt: một vài lô hàng kém chất lượng do giống xấu có thể làm ảnh hưởng đến cả một thương hiệu, một vùng sản xuất trồng và thậm chí là hình ảnh của cả ngành lúa gạo quốc gia trên trường quốc tế.
Dù là trung tâm sản xuất lúa quốc gia, song “vùng trũng” về chất lượng hạt giống lúa lại chính là khu vực ĐBSCL. Cụ thể, ở ĐBSCL, hệ thống giống chính quy (doanh nghiệp, trung tâm giống) đáp ứng khoảng 45% nhu cầu (4 triệu hecta), gieo trồng tương đương 180.000-200.000 tấn giống/năm; hệ thống nông hộ (tổ hợp tác, HTX) sản xuất khoảng 25% tương ứng 90.000-100.000 tấn giống lúa/năm; còn lại nông dân tự chủ.
Do đó, các chuyên gia kinh tế cho rằng, chỉ khi áp dụng đồng bộ khoa học và công nghệ trong toàn bộ chuỗi sản xuất giống, Việt Nam mới duy trì được chất lượng hạt gạo ổn định: tỷ lệ nảy mầm cao, cây sinh trưởng đồng đều, không lẫn tạp.
Quan trọng hơn, việc kiểm soát chất lượng giống góp phần thực hiện thành công Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030. Đây là bước đi chiến lược để xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam bền vững, nâng vị thế quốc gia trên thị trường lúa gạo thế giới.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Thái Bình- Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An cho rằng: Giống đóng vai trò quan trọng trong chuỗi ngành hàng lúa gạo. Vì vậy, việc áp dụng khoa học công nghệ, số hóa vào sản xuất lúa giống là cần thiết.
Công ty rất mong muốn mua được giống lúa chất lượng, thuần chủng để đưa xuống ruộng nên rất kỳ vọng sẽ có doanh nghiệp đưa ra giải pháp, thiết bị ứng dụng AI để phân tích được lúa giống chuẩn; giống xác nhận, không bị trộn lẫn để doanh nghiệp, nông dân có thể sử dụng.
Theo ông Trần Xuân Định- Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam (VSTA) cho biết, trước đây là “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, còn trong canh tác hiện đại, thông minh thì “giống là tiền đề”, là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của chuỗi giá trị lúa gạo.
Nâng tầm chất lượng lúa gạo
Ông Trần Xuân Định cho biết, giai đoạn trước năm 2010, phần lớn các giống công nhận giống quốc gia được chọn tạo theo phương pháp lai hữu tính truyền thống, gây đột biến nhân tạo.
Giai đoạn từ năm 2010-2020, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học, công nghệ gien, công nghệ tế bào… các gien mục tiêu như chất lượng, chống chịu sâu bệnh, mặn, ngập úng, được định vị và chuyển thành công vào các dòng, giống.
Từ năm 2020 đến nay, nghiên cứu chọn tạo giống lúa đã bắt đầu ứng dụng công nghệ gien sâu hơn, chỉnh sửa gien trên giống lúa có kết quả và tiếp tục được thử nghiệm sản xuất.
“Hiện cả nước có hơn 200 doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh giống cấp tỉnh và hơn 20 viện, trường ĐH nghiên cứu, sản xuất kinh doanh giống cây trồng. Các tập đoàn, doanh nghiệp lớn như Vinaseed, ThaiBinh seed, Lộc Trời,… sử dụng hệ thống máy móc, công nghệ chế biến hạt giống hiện đại như: Hệ thống sấy silo, sấy vỉ ngang đảo chiều đảm bảo ẩm độ hạt giống theo quy định. Máy chế biến tự động hóa với hệ thống sàng, lọc, loại bỏ tạp chất, hạt cỏ dại và hạt khác biệt”- ông Định cho biết thêm.
Nói về ứng dụng công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), TS Trần Ngọc Thạch-Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết: Việc ứng dụng AI để kiểm tra giống lúa là hướng đi tốt, hỗ trợ rất nhiều cho các nhà sản xuất hạt giống và cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám định độ thuần, độ sạch của giống lúa. Đây là yếu tố quan trọng trong việc kiểm nghiệm chất lượng hạt giống.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng lúa giống, theo các nhà khoa học, từ đồng ruộng đến nhà máy, khoa học và công nghệ phải được áp dụng đồng bộ, liên kết với thị trường và tiêu chuẩn xuất khẩu. Bởi chỉ khi hạt giống được kiểm soát từ gốc, hạt gạo Việt Nam mới đủ sức cạnh tranh và khẳng định vị thế.
Do đó, ngành chức năng có liên quan cần tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn giống, nông dân cần quản lý đồng ruộng thông minh, đẩy mạnh liên kết nghiên cứu giữa doanh nghiệp- viện nghiên cứu và nông dân.
Theo Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam (VSTA), diện tích sản xuất hàng năm (5 năm gần đây) khoảng 7,1-7,2 triệu hecta, năng suất bình quân trên dưới 60 tạ/ha, sản lượng hơn 43 triệu tấn. Xuất khẩu gạo năm 2024 lập kỷ lục với khối lượng hơn 9 triệu tấn, kim ngạch hơn 5,6 tỷ USD.
Trong tổng diện tích gieo trồng hàng năm 7,2 triệu hecta, lúa thơm, chất lượng cao chiếm hơn 5,1 triệu hecta; lúa chất lượng trung bình hơn 1,3 triệu hecta; còn lại là lúa lai, nếp… Tổng nhu cầu giống mỗi năm từ 570.000-580.000 tấn, trong đó khả năng sản xuất trong nước đạt gần 98%.
Bài, ảnh: TRÀ MY
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin