Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tạo thế và lực mới cho phát triển đất nước

19:08, 07/11/2025

Ngày 7/11, đóng góp trong phiên thảo luận về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long nhất trí cao với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh đồng thời cho rằng, đây là bước điều chỉnh chiến lược rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới - giai đoạn đặt nền tảng cho một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc vào năm 2050. Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia lần này không chỉ là kỹ thuật lập quy hoạch, mà là điều chỉnh tư duy phát triển quốc gia, tạo nền tảng cho mô hình tăng trưởng mới - tăng trưởng nhanh, xanh và bền vững. Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia chính là tạo thế và lực mới cho đất nước, hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.

Sự cần thiết của việc điều chỉnh Quy hoạch

Sau hơn hai năm thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15, Quy hoạch tổng thể quốc gia đã bước đầu phát huy vai trò định hướng phát triển không gian quốc gia. Tuy nhiên, bối cảnh mới đòi hỏi cần được điều chỉnh để phù hợp hơn.

Thứ nhất, Đảng ta đã xác định mục tiêu phát triển mới - tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, và giai đoạn 2026-2030 phấn đấu đạt mức hai con số. Đây là bước nhảy chiến lược, đòi hỏi Quy hoạch phải tái thiết mô hình tăng trưởng, tổ chức lại không gian phát triển quốc gia.

Thứ hai, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, cả nước hiện còn 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc sắp xếp này làm thay đổi ranh giới, tính chất và quy mô phát triển vùng, đòi hỏi phải cập nhật lại toàn bộ cấu trúc không gian của Quy hoạch quốc gia.

Thứ ba, bối cảnh quốc tế và trong nước đang thay đổi rất nhanh. Những xu thế như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực và ứng phó biến đổi khí hậu đang tác động sâu sắc đến cấu trúc phát triển của quốc gia. Vì vậy, việc điều chỉnh Quy hoạch lần này là yêu cầu cấp thiết, có cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn vững chắc.

 Những nội dung mới, mang tính đột phá

Tôi đánh giá cao ba nhóm điều chỉnh lớn trong bản Quy hoạch lần này:

Một là, về quan điểm phát triển, Quy hoạch bổ sung tư duy “phát triển để duy trì ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển”; lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh làm động lực then chốt. Đây là bước chuyển mạnh mẽ từ “phân bổ nguồn lực” sang “kiến tạo năng lực phát triển”.

Hai là, về mục tiêu đến năm 2030, Quy hoạch điều chỉnh rõ ràng, cụ thể hơn: (1) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt trên 8%/năm, trong đó giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10%/năm trở lên; (2) GDP bình quân đầu người đạt khoảng 8.500 USD; (3) Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đạt trên 55%; (4) Hoàn thiện bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia với khoảng 5.000 km đường cao tốc, các cảng trung chuyển quốc tế và sân bay Long Thành; (5) Chỉ số HDI đạt khoảng 0,78, thể hiện tiến bộ toàn diện về con người, môi trường và an sinh xã hội.

Ba là, ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững.

Việc đưa một điều vào quy hoạch là cần thiết để ứng phó với biến đổi của môi trường theo hướng bền vững, trên cơ sở khoa học. Tập trung Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp là xu thế tất yếu, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; mở ra cơ hội phát triển các mô hình kinh doanh mới, không gian tăng trưởng mới.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và triển khai hiệu quả Quy hoạch

Thống nhất cao ý kiến thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, tôi đề nghị:

1. Đảm bảo tính ổn định, dự báo và tầm nhìn dài hạn: Quy hoạch tổng thể quốc gia là “bản đồ phát triển 10-20 năm” của đất nước. Do đó, cần tránh tư duy điều chỉnh ngắn hạn, cục bộ, chạy theo nhiệm kỳ; Tăng cường cơ sở dữ liệu, mô hình dự báo và kịch bản phát triển, đặc biệt là tác động của biến đổi khí hậu và chuyển dịch dân cư; Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch thống nhất, đảm bảo kết nối giữa Trung ương, vùng và địa phương.

2. Tăng cường huy động nguồn lực và hoàn thiện thể chế phát triển vùng: Mục tiêu tăng trưởng hai con số đòi hỏi nguồn lực rất lớn và cách tiếp cận mới: tiếp tục nghiên cứu cơ chế hình thành Quỹ phát triển vùng hoặc Quỹ đầu tư hạ tầng liên vùng một cách hiệu quả, khả thi để tập trung đầu tư cho giao thông, logistics, năng lượng tái tạo và chuyển đổi số; Có cơ chế điều phối vùng linh hoạt, gắn với phân cấp, phân quyền rõ ràng cho địa phương; Đẩy mạnh hợp tác công - tư (PPP), thu hút vốn tư nhân, vốn xanh, vốn FDI vào các lĩnh vực hạ tầng, đổi mới sáng tạo và năng lượng sạch.

3. Về điều chỉnh phân vùng và định hướng phát triển vùng kinh tế - xã hội: Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội nhận định, việc phân vùng kinh tế - xã hội cơ bản vẫn giữ nguyên số lượng là 6 vùng. Do đó, đề nghị làm rõ hơn phương án phân vùng mới sẽ tác động, ảnh hưởng như thế nào đến định hướng phát triển của từng vùng; đánh giá tính liên kết trong nội tại từng vùng. Bên cạnh đó, đề nghị thuyết minh, làm rõ hơn tính đặc thù, vị trí địa lý và nhiệm vụ, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng nhằm phát huy tối đa tiềm năng và khai thác hiệu quả lợi thế sẵn có; khắc phục được các tồn tại, hạn chế của từng vùng và liên kết vùng để thúc đẩy phát triển bền vững của cả quốc gia.

Tôi thống nhất cao với nhận định này, đặc biệt là định hướng phát triển của Chính phủ về phát triển vùng ĐBSCL thành trung tâm kinh tế nông nghiệp hiện đại, bền vững, năng động và hiệu quả cao của cả nước, khu vực và thế giới. Phát triển D9BSCL trở thành thương hiệu quốc tế về du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch sinh thái và du lịch biển, đảo.

Thực tế hiện hay cho thấy tại ĐBCSL - vùng “trọng yếu của an ninh lương thực và sinh thái quốc gia” - đang chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu: nước biển dâng, xâm nhập mặn, sụt lún đất và thiếu phù sa từ thượng nguồn. Đề nghị Chính phủ quan tâm:

Thứ nhất, bổ sung các nội dung cụ thể, đặc biệt là nguồn lực và điều kiện đảm bảo thực hiện các định hướng trong Quy hoạch để phát triển vùng này theo hướng bền vững, hiện đại và thích ứng; có cơ chế tài chính đặc thù cho các dự án liên vùng, bảo đảm đầu tư tập trung, không dàn trải để phát triển kinh tế nông nghiệp xanh, thông minh, phát thải thấp. Tái cấu trúc không gian phát triển vùng theo hướng “thuận thiên”: Quy hoạch lại đô thị ven sông, ven biển gắn với các trục sông Hậu - sông Tiền; Phát triển các trung tâm đô thị động lực như Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp thành hạt nhân liên kết kinh tế, logistics, năng lượng tái tạo; Đầu tư mạnh cho hạ tầng và dự án liên vùng như các dự án cao tốc, đường sắt tốc độ cao, cảng trung chuyển quốc tế, trung tâm dữ liệu vùng và hệ thống cảnh báo sớm thiên tai, xâm nhập mặn, sụt lún; các tuyến đường kết nối các đô thị quan trọng tại các tỉnh, thành phố sau sáp nhập Tăng cường năng lực thích ứng khí hậu và quản lý nguồn nước

Thứ hai, đẩy mạnh liên kết vùng và các hành lang phát triển quốc gia: Liên kết kinh tế, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên kết vùng không chỉ giúp tăng cường lợi thế cạnh tranh mà còn tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng ĐBSCL chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật; hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển liên kết vùng chưa đủ sức hấp dẫn. Do đó:

(1) Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét, xây dựng chính sách đột phá nhằm nâng cao hiệu quả thu hút các nguồn lực đầu tư trong phát triển kinh tế - xã hội tại vùng ĐBSCL, trên cơ sở đánh giá các chính sách, cơ chế đặc thù vượt trội đã áp dụng hiệu quả tại một số tỉnh, thành trong thời gian qua.

(2) Đề nghị Quốc hội giao Chính phủ Xây dựng chương trình hành động cụ thể, phân kỳ đầu tư rõ ràng, nghiên cứu nghiên cứu, lựa chọn các dự án vùng và có tính chất vùng quan trọng, cấp bách theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị đưa vào Quy hoạch như Quy hoạch vùng nguyên liệu; xây dựng thương hiệu phân khúc chất lượng cao; ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; huy động nguồn vốn; phát triển thị trường với sự tham gia của doanh nghiệp; liên kết sản xuất lớn; phát triển hạ tầng số, thủy lợi, giao thông, điện, công nghiệp chế biến…; gắn kết chặt chẽ quy hoạch quốc gia - quy hoạch vùng - quy hoạch tỉnh, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, hiệu quả. Đây sẽ là cơ sở cho các địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương gắn với thúc đẩy liên kết vùng, phát triển vùng.

(3) Hướng tới đề nghị Quốc hội nghiên cứu, xem xét ban hành Luật về phát triển vùng. Đây sẽ là văn bản pháp luật quan trọng làm cơ sở cho hoạt động liên kết, phát triển vùng trong thời gian tới. Hiện nay, các quy định về phát triển vùng cũng đang nằm rải rác trong các luật chuyên ngành. Để tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan ở địa phương, Hội đồng điều phối phát triển vùng ở Trung ương; các bộ, Chính phủ và các cơ quan khác cần thiết phải có một văn bản luật để kịp thời điều chỉnh, phục vụ cho việc liên kết vùng. 

Q.N (ghi)

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh