Dự án Luật Báo chí (sửa đổi): Quy định rõ hơn về cơ chế chính sách đặc thù

18:50, 23/10/2025

Đóng góp trong phiên thảo luận ở tổ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV vào chiều ngày 23/10 về Dự án Luật Báo chí (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Vĩnh Long có nhiều ý kiến đóng góp về quyền tự do ngôn luận trên báo chí; về cơ chế tài chính; về phát triển mô hình tổ hợp báo chí...   

 

Đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang cho rằng: Với tinh thần xây dựng và mong muốn phát triển nền báo chí nước nhà vững mạnh, tôi xin tham gia một số ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).

Về giải thích từ ngữ (Điều 3), để có cách hiểu thống nhất đề nghị dự thảo Luật tiếp tục rà soát, chuẩn hóa các thuật ngữ đã được giải thích, đồng thời bổ sung và giải thích các cụm từ được đề cập nhiều lần trong các điều khoản của dự thảo luật như: nhà báo, người làm báo, tổ hợp truyền thông đa phương tiện, kinh tế báo chí, nội dung số trả phí… Việc chuẩn hóa và làm rõ các thuật ngữ này sẽ giúp Luật Báo chí (sửa đổi) không chỉ là công cụ quản lý mà còn là hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển và nâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo chí Việt Nam trong thời đại số.

Về Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân (Điều 6): Đề xuất bổ sung quy định: Bảo vệ thông tin cá nhân của công dân khi tham gia góp ý kiến, phê bình, kiến nghị. Việc bổ sung quy định này là thiết yếu để bảo vệ an toàn cho người dân, khuyến khích họ mạnh dạn thực hiện quyền tự do ngôn luận, nhất là trong bối cảnh công nghệ số, việc công dân tham gia góp ý, đặc biệt là phê bình hoặc tố cáo các vấn đề tiêu cực, có thể dẫn đến rủi ro bị tấn công, trả thù, hoặc đe dọa trên không gian mạng.

Khi công dân tin rằng thông tin cá nhân của họ được bảo mật, họ sẽ tự tin và sẵn sàng hơn trong việc cung cấp thông tin trung thực, khách quan về các sai phạm hoặc bất cập. Điều này giúp báo chí có được nguồn tin chính xác, đa chiều để thực hiện chức năng giám sát hiệu quả.

Quy định này đồng bộ với các nỗ lực của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân (như Nghị định 13/2023/NĐ-CP). Báo chí và cơ quan quản lý cần có trách nhiệm rõ ràng trong việc mã hóa, lưu trữ an toàn và chỉ sử dụng thông tin cá nhân của người góp ý trong phạm vi cho phép của pháp luật.

Đối với các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9), cơ bản tán thành với 14 khoản tại Điều 9. Riêng tại Khoản 13, Điều 9 có quy định cấm “Đe dọa, uy hiếp tính mạng, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên; phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật”.  

Tuy nhiên, quy định hiện tại chỉ mới tập trung vào các hành vi vật lý hoặc trực tiếp (đe dọa tính mạng, gây thương tích, phá hủy phương tiện, cản trở tác nghiệp). Trong khi đó, không gian mạng đang trở thành môi trường chính yếu và nguy hiểm nhất để tấn công cá nhân nhà báo. 

Để đảm bảo tính toàn diện và phù hợp với thực tiễn, tôi đề xuất nội dung bổ sung/sửa đổi Khoản 13 như sau: “Cấm hành vi đe dọa, tấn công, khủng bố nhà báo, phóng viên trên không gian mạng dưới mọi hình thức, bao gồm việc sử dụng công nghệ hoặc nền tảng trực tuyến để xâm phạm quyền riêng tư, bí mật cá nhân, bôi nhọ, xuyên tạc thông tin, hoặc tổ chức gây bạo lực tinh thần nhằm cản trở hoạt động báo chí đúng pháp luật”.

Về nội dung cấp, đổi, thu hồi thẻ nhà báo tại Khoản 4, Điều 29, Mục 3, Chương 2, dự thảo quy định: “Thời hạn sử dụng thẻ nhà báo là 5 năm tính từ ngày cấp thẻ và được ghi trên thẻ. Hết thời hạn sử dụng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xét cấp đổi thẻ nhà báo”.

Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc thêm về quy định này trong bối cảnh chúng ta đã có Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư và Căn cước công dân (CCCD) gắn chip, thông tin về một cá nhân đã được số hóa và cập nhật liên tục.  

Thẻ nhà báo vật lý chỉ cần cấp một lần với mẫu thống nhất và có giá trị sử dụng lâu dài. Khi cần xác minh, cơ quan, tổ chức chỉ cần quét mã QR hoặc tra cứu qua Cổng thông tin điện tử chính thức của Bộ chủ quản để biết thẻ đó còn hiệu lực hay không. Điều này sẽ hiệu quả hơn rất nhiều so với việc dựa vào thời hạn in trên thẻ. 

Về lâu dài, có thể tích hợp thông tin thẻ nhà báo vào ứng dụng VNeID hoặc phát hành Thẻ nhà báo điện tử. Điều này sẽ loại bỏ hoàn toàn nhu cầu phải đổi thẻ vật lý định kỳ, thể hiện tinh thần cải cách hành chính và ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý nhà nước về báo chí, giúp tiết kiệm nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành báo chí.

Điều 33 dự thảo quy định Thời hạn trả lời trên báo chí của các cơ quan, tổ chức cá nhân là 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người đứng đầu cơ quan báo chí. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu cao nhắc thêm về sự cần thiết của việc rút ngắn thời hạn này, vì trên thực tế nhiều cơ quan báo chí cho rằng việc kéo dài thời gian trả lời trên báo chí đến 30 ngày nhiều khả năng sẽ không theo kịp tốc độ truyền thông hiện đại, nhất là đối với một số vấn đề nóng, nếu không được cơ quan có thẩm quyền trả lời kịp thời có thể gây ra luồng dư luận tiêu cực, thông tin nhiễu loạn hoặc hiểu lầm kéo dài trong xã hội làm giảm độ tin cậy và tính thời sự của thông tin phản hồi, thậm chí làm giảm khả năng phản ứng linh hoạt của cơ quan nhà nước trước các vấn đề phát sinh, cản trở việc giải quyết kịp thời các “điểm nghẽn” hoặc vướng mắc trong thực tiễn.

Mặt khác, theo tôi Điều 33 cũng cần thiết bổ sung chế tài xử lý đối với việc không trả lời báo chí và chế tài sẽ do Chính phủ quy định chi tiết, nhằm tăng cường kỷ luật hành chính, nâng cao tính chủ động và tốc độ xử lý công việc.

Đối với một số nội dung quan trọng khác:   

Về cơ chế tài chính: Trong bối cảnh báo chí thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, nguồn thu từ hoạt động phát hành, quảng cáo- vốn được coi là “kinh tế báo chí truyền thống”- đang bị giảm mạnh do thị phần quảng cáo phần lớn đã chuyển sang các nền tảng số xuyên biên giới (Google, Facebook...), tác động không nhỏ đến khả năng tự chủ tài chính và tái đầu tư vào công nghệ, từ đó ảnh hưởng đến vai trò định hướng thông tin trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Cho thấy, chuyển đổi số là yêu cầu sống còn, báo chí bắt buộc phải chuyển đổi mô hình tổ chức, sản xuất, và quản trị bằng cách ứng dụng công nghệ (AI, phân tích dữ liệu, xây dựng nền tảng số, đào tạo nhân lực công nghệ…). Việc này đòi hỏi nguồn vốn lớn mà không phải cơ quan báo chí nào cũng có thể tự cân đối được.

Đề xuất bổ sung quy định rõ hơn về cơ chế chính sách đặc thù, làm cơ sở pháp lý khẳng định báo chí là đối tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ vốn chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, để cơ quan báo chí thuận lợi tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi, vốn đầu tư công và các quỹ quốc gia, cũng như các ưu đãi về thuế, phí khi đầu tư vào các dự án chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, phát triển hạ tầng kỹ thuật và công nghệ làm báo tiên tiến trên nền tảng số và thích nghi với hệ sinh thái truyền thông số toàn cầu.

Đây cũng là giải pháp quan trọng để bảo đảm thực hiện mục tiêu kép: Giữ vững vai trò định hướng thông tin, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh, sức sống và khả năng tự chủ của báo chí trong nền kinh tế số.  

Việc phân định trách nhiệm quản lý nhà nước cần được làm rõ hơn, đặc biệt là giữa Bộ chủ quản giữ vai trò cơ quan quản lý nhà nước về báo chí và các bộ, ngành, địa phương. Cần tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện thuận lợi, giảm thủ tục hành chính không cần thiết cho các cơ quan báo chí. Đề nghị Luật cần quy định rõ về cơ chế phối hợp liên ngành trong xử lý vi phạm liên quan đến thông tin trên mạng, bao gồm cả báo chí và các nền tảng xuyên biên giới, để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả.  

Các quy định đặc thù của từng loại hình báo chí (báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử) và đặc biệt là báo chí phục vụ đối tượng đặc thù (dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, đối ngoại) cũng cần được luật hóa. Cần có chính sách đầu tư ưu tiên và cơ chế đặt hàng riêng cho những cơ quan báo chí này, đảm bảo thông tin thiết yếu đến mọi tầng lớp nhân dân, giữ vững bản sắc văn hóa và bảo vệ an ninh thông tin.  

Về phát triển mô hình tổ hợp: Trong bối cảnh hội tụ truyền thông, việc khuyến khích phát triển mô hình tổ hợp truyền thông đa phương tiện là xu thế tất yếu. Do đó, dự thảo cần có quy định mở, khuyến khích các cơ quan báo chí liên kết về công nghệ, nhân lực, tạo thành các tổ hợp truyền thông lớn, đủ sức cạnh tranh với các nền tảng toàn cầu. Cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý và tài chính để các tổ hợp này chuyển đổi số thành công và phát triển các sản phẩm báo chí chất lượng cao.  

Để Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) thực sự là một đạo luật của sự phát triển, tôi đề xuất tập trung vào 3 trụ cột: Phát triển bền vững; quản lý thông minh và bảo vệ quyền tác nghiệp, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho nền báo chí cách mạng Việt Nam. 

BT (ghi)  

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh