Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, miền Bắc hoàn toàn thống nhất, trong khi ở miền Nam Mỹ thay Pháp nhảy vào phá hoại hiệp định. Báo chí cách mạng Vĩnh Long được chủ trương tham gia kháng chiến, đòi hòa bình thống nhất, thực hiện hiệp định, đồng thời kêu gọi Nhân dân cùng xung trận lật ngụy giải phóng quê hương.
![]() |
Các đồng chí Hồ Ngọc Mảnh, Lê Minh Phú và Trần Văn Ngừa ghi tin đọc chậm. |
Làm báo dưới hầm bí mật
Tại Chắc Băng (Cà Mau) tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ họp chia lại địa bàn các tỉnh. Vĩnh Trà được tách ra làm tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Ở Vĩnh Long, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trương ra tờ báo Hòa Bình Thống Nhất làm phương tiện tuyên truyền. Nhiệm vụ tờ báo là đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi thi hành nghiêm chỉnh những điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ…
Ngoài ra, tờ báo có nhiệm vụ chống lại kế hoạch tuyên truyền phá hoại cách mạng của tên Hà Ngọc Bửu. Theo Lịch sử báo chí ghi lại: “Lúc ấy hắn điên cuồng dùng máy bay trên trời ra rả kêu gọi “chiêu hồi”, hù dọa “tử thần chờ đợi”, rải truyền đơn, dán áp phích hô hào “Bắc Tiến”…”
Tòa soạn báo Hòa Bình Thống Nhất đóng tại nhà ông Bảy Tấn, ông Tư Nhậm ở ấp Tân Phong II (xã Tân Long, huyện Cái Nhum). Ban đầu ban biên tập mượn một radio của dân thu tin đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam ra bản tin trong nước. Ngoài ra, còn cho in xã luận để hướng dẫn đấu tranh, tin trong tỉnh từ cấp ủy đảng chuyển sang và thỉnh thoảng còn in một vài bài thơ cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng.
Báo in tăng xin 8 trang, mỗi kỳ 2.000 số, thường 1 tháng một số, nhưng có tháng giặc lùng sục hoặc kinh phí thiếu hụt báo không ra được. Măng sét báo màu đỏ, chữ đen khổ 19x27cm. Ban biên tập vừa in báo, vừa lo tiếp liệu giấy mực, xây dựng đội ngũ phát hành.
Địch đánh ác liệt, công việc vô cùng gian khổ. Có lúc ban biên tập không đánh máy được phải viết tăng xin bằng tay ở hầm bí mật. “Không nản chí, được sống trong vòng tay Nhân dân, được tin yêu, che chở, giúp đỡ tận tình. Nhân dân là người mẹ hiền, chính Nhân dân đã phát hành tờ báo và các bản tin, chính Nhân dân mua giấy mực và cũng chính Nhân dân canh chừng địch để các nhà báo in ấn xuất bản báo”- lịch sử ghi lại. Năm 1957, cấp trên có chủ trương cho cán bộ đi điều lắng, tờ Hòa Bình Thống Nhất vì thế tạm đình bản.
Mùa nước năm 1958, sau khi chính quyền Mỹ- Diệm cho điều chỉnh địa giới hành chính Vĩnh Long, lấy một số huyện phía Nam tỉnh Sa Đéc nhập vào, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Võ Vân Nam (Sáu Liêm)- là Phó Trưởng Ban Tuyên huấn Vĩnh Long, tiếp tục cho ra tờ báo Hòa Bình Thống Nhất, tờ tin Vĩnh Long.
Tòa soạn đặt tại kinh Thầy Lâm (xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò) với 8 trang, khổ giấy tập học sinh, không định kỳ, số lượng 80 bản/kỳ in bằng giấy tăng xin nhằm tuyên truyền các hình thức đấu tranh, tổ chức quần chúng vừa đấu tranh vừa che giấu lực lượng, giáo dục cán bộ đảng viên về khí tiết người cộng sản, tin vào Đảng, bám vào dân…
Do địch thường xuyên lùng sục, để tránh tiếng động nên chuyển sang viết tay trên giấy sáp. Có lúc địch đánh phá ác liệt, đồng chí Nguyễn Tấn Tước phải ngồi hầm bí mật suốt 3 tháng để in báo. “Việc tiếp liệu cho việc in báo chủ yếu nhờ một chủ trại lá tại vàm Xẻo Vời lo. Ông này mỗi lần mua lá về giấu dưới lá hàng chục bao giấy, mực in… Tờ báo như thế tồn tại đến năm 1960”- lịch sử báo chí ghi lại.
Nhà báo Đoàn Hải Nhân- nguyên Tổng Biên tập Báo Vĩnh Long Một trong những ấn tượng của thế hệ làm báo như tôi là Nhân dân nhìn nhà báo là một chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng và vũ khí là cây viết, coi lực lượng nhà báo là một tập thể tuyên truyền, thông tin báo chí. Cũng có thể kể ấn tượng tiếp theo là báo chí trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, năm 60-70 trở đi khi còn in bằng chữ chì, kéo lụa và đã có cộng tác viên (dù chỉ đếm trên đầu ngón tay). Hay như, trong thời buổi chiến tranh ác liệt, không năm nào báo chí tỉnh nhà bỏ tờ báo xuân, thậm chí có năm báo xuân ra 2 lần như Mậu Thân 1968. Lực lượng làm báo lúc ấy không nhiều, nhưng rất yêu nghề, tích cực, chịu khó, chịu khổ, đi theo bộ đội, đi theo chiến dịch,... và tất cả đều có sự tin tưởng của Đảng, của cách mạng, của Nhân dân. Những điều này góp phần đưa thông tin, định hướng của tỉnh kịp thời, đúng định kỳ đến bạn đọc... |
Tiếng kèn xung trận
![]() |
Đồng chí Huỳnh Ngọc Hoành (Chín Sang) đánh mật mã đưa tin về Trung ương. |
Sau Đồng Khởi 1960, nhiệm vụ chính trị tỉnh Vĩnh Long có sự thay đổi, từ đấu tranh đòi Hòa Bình Thống Nhất chuyển sang đấu tranh chống địch lập khu trù mật, ấp chiến lược giải phóng quê hương. Tỉnh ủy Vĩnh Long chủ trương đổi tên tờ báo thành Kèn Giải Phóng (tiếng kèn xung trận). Ngày 19/9/1960, Kèn Giải Phóng chính thức ra mắt bạn đọc tại kinh Câu Dụng (xã Thành Lợi, huyện Bình Minh), là cơ quan của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Vĩnh Long, do ông Lê Văn Vị- Chủ tịch Ủy ban làm chủ nhiệm. Báo ra 1 tháng 1 số 12 trang, khổ 24x32cm, in tăng xin, bìa chạy bản gỗ.
Khó khăn lúc này là cán bộ làm báo, khi từ phụ trách cho đến biên tập viên, phóng viên chưa ai học nghiệp vụ. Ban Tuyên huấn phân công 1 đồng chí chuyên trách (tạm gọi là thư ký tòa soạn)- đó là đồng chí Nguyễn Trọng Nhĩ (Chín Tiên) hàng ngày tập hợp bài vở, biên tập, bố trí các trang báo. Nhiều chiến sĩ cán bộ trông chờ tờ báo phát hành lấy làm phương tiện tuyên truyền học tập cho quần chúng.
Việc ban hành tờ báo do ngành Giao Bưu tỉnh phụ trách. Về sau báo bổ sung thêm một số biên tập viên có văn hóa khá như đồng chí Võ Văn Tước, đồng chí Nguyễn Khắc Hiếu… và một số nhân viên để thu chép tin đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Giải Phóng. Báo Kèn Giải Phóng còn có thêm nhiệm vụ viết cộng tác về Đài Phát thanh Giải Phóng. Sau biên tập ra tờ tin hàng tuần phát hành xuống tận các xã do đồng chí Nguyễn Khắc Hiếu phụ trách.
Theo hồi ký của đồng chí Nguyễn Khắc Hiếu, khi có sự kiện nổi bật thì ra thêm tờ tin đặc biệt, tin sốt dẻo, hay tin loa phát hành trong nội bộ. Thường thì lấy từ các báo cáo gửi về Văn phòng Tỉnh ủy, từ việc thu tin đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh Giải Phóng, từ các tài liệu do Đài Minh Ngữ thu, một số ít lấy từ cộng tác viên và phóng viên đi viết trực tiếp.
Có một sự kiện đáng nhớ trong thời kỳ này lịch sử báo chí ghi lại là đầu năm 1962, Ban Biên tập Báo Kèn Giải Phóng sau khi đi thông qua bản thảo báo xuân với Thường vụ Tỉnh ủy đang làm việc với Huyện ủy Châu Thành, về tới trạm giao liên Nước Đục (xã Song Phú, huyện Tam Bình) thì địch phục kích đón đường khiến không qua lộ được. Ban biên tập quyết định qua lộ ban ngày- vì thời điểm này địch mất cảnh giác nhất và đề cử đồng chí Nguyễn Ngọc Sương đi. Nhờ vậy, báo ra kịp Tết.
Chiến tranh ác liệt, chúng càn quyết bắn phá liên miên, tòa soạn báo phải cất chòi ngoài vườn rậm làm việc, thiếu thốn mọi bề. Trong một đoạn hồi ký, ông Nguyễn Khắc Hiếu ghi lại: “Một hôm nọ, từ Trà Ôn, lính sư đoàn mở trận càn lớn sâu vào toàn xã Ngãi Tứ và đóng quân trùm lên toàn bộ cơ quan. Anh em nằm dưới hầm nhịn đói cả ngày. Tối đến tìm cách lần ra. Bữa nọ, địch phát hiện, bắn chết một số anh em, còn lại rút quân hướng từ Giáo Mẹo qua Phú Long, Phú Yên xuống Còng Cọc để thay đổi địa điểm…”. Đã vậy, mỗi cán bộ phải làm ruộng tự túc 6 tháng ăn, có khi phải điều cán bộ đi dân công tải súng đạn, xây dựng xã ấp chiến đấu, bao vây đồn bót hoặc tham gia chống càn bảo vệ căn cứ.
Đầu năm 1963, Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam chiêu sinh lớp báo chí. Tiểu ban Thông tấn báo chí đưa 3 đồng chí là: Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyên Trọng Nhĩ và Võ Văn Tước đi học nghiệp vụ làm báo nhằm tăng cường tay nghề cho đội ngũ báo Kèn Giải Phóng. Nhờ vậy có một số cây viết có tay nghề khá, tờ báo nâng dần chất lượng và nội dung. Số lượng báo phát hành cũng tăng lên từ 500-1.000 số.
Phục vụ Tổng tiến công Tết Mậu Thân, báo tập trung toàn bộ lực lượng cho báo xuân. Khác thường lệ, trong số báo này là đăng bài thơ chúc Tết của Bác Hồ. Đây có thể xem là thời kỳ làm báo hưng phấn nhất của báo Kèn Giải Phóng, tờ báo được Nhân dân tin yêu, Đảng bộ tin cậy giao trọng trách lớn là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng.
Từ 1960-1968 tòa soạn báo Kèn Giải Phóng di chuyển nhiều nơi. Từ kinh Câu Dụng (6/1961), dời về vườn Dơi (xã Phú Long, huyện Sa Đéc). Tháng 11/1961, báo dời về Kinh Cũ (xã Hòa Tân, huyện Châu Thành). Tết năm 1962, báo dời về Ngã Cạy, Kinh Xéo, xã Mỹ Lộc (huyện Tam Bình). Tháng 7/1962 lại về đóng ở Ngãi Tứ (huyện Trà Ôn). Năm 1963, báo dời về ở ngọn Còng Cọc xã Song Phú (huyện Tam Bình). Năm 1964, tòa soạn lại dời về xã Mỹ Thuận (huyện Bình Minh) đến Tết Mậu Thân. |
T.PHƯỚC- H.MINH- M.THÁI
(Còn tiếp)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin