Cần sớm đưa lao động giúp việc vào danh mục nghề quốc gia

10:12, 23/12/2013

Đến thời điểm này, rất nhiều quy định mới trong Bộ luật Lao động sửa đổi (có hiệu lực từ 1/5/2013) đang được dư luận xã hội quan tâm, nhất là lần đầu tiên Luật đưa ra 5 điều khoản liên quan đến lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ), khẳng định đây là một nghề ngang bằng với các ngành nghề khác trong xã hội.

Đến thời điểm này, rất nhiều quy định mới trong Bộ luật Lao động sửa đổi (có hiệu lực từ 1/5/2013) đang được dư luận xã hội quan tâm, nhất là lần đầu tiên Luật đưa ra 5 điều khoản liên quan đến lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ), khẳng định đây là một nghề ngang bằng với các ngành nghề khác trong xã hội.

Ngày 21/12, hội thảo về LĐGVGĐ và chính sách pháp luật liên quan, do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tại Hà Nội đã thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan báo chí.

Chuyên nghiệp hóa LĐGVGĐ và làm thế nào để những chính sách pháp luật bảo vệ quyền lợi cho các lao động làm nghề này được thực thi trong cuộc sống… là những vấn đề được đặt ra trong khi LĐGVGĐ ở Việt Nam phần lớn chưa qua đào tạo và người làm nghề vẫn chỉ coi là công việc tạm thời.

Trong khi chờ Nghị định hướng dẫn thi thành 5 Điều quy định về LĐGVGĐ trong Bộ luật Lao động 2012 (đang được Bộ LĐ-TB&XH hoàn chỉnh) thì một nghiên cứu tổng quan về tình hình LĐGVGĐ tại Việt Nam đã được Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (GFCD) thực hiện, đã đưa ra bức tranh chung về LĐGVGĐ, cũng như những khoảng trống về chính sách để bảo vệ các lao động này.
 
Không phải đến Bộ luật Lao động năm 2012 mới có quy định về LĐGVGĐ mà trong Bộ luật Lao động năm 1994 cũng có nhắc đến nhưng chỉ với 2 Điều khoản quy định, nhưng theo bà Ngô Ngọc Anh, Giám đốc Trung tâm GFCD, qua khảo sát thì hầu như tất cả người sử dụng và người LĐGVGĐ được hỏi, đều không biết đến các quy định này.


Lao động giúp việc gia đình cần được đưa vào danh mục nghề quốc gia, cần được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.

Điều đáng chú ý là trước năm 2012, các vấn đề được đề cập đến như hợp đồng lao động, thời gian nghỉ ngơi, các khoản trợ cấp, ứng xử của gia chủ với LĐGVGĐ đã được quy định chung nhưng không hướng dẫn cụ thể và không có chế tài đi kèm để đảm bảo việc thực thi của luật pháp.
 
Chính vì thế mà đến tận bây giờ, mọi giao dịch cũng như phương thức sử dụng LĐGVGĐ của phần lớn các gia đình đều vẫn dựa vào thỏa thuận miệng, hiếm có lao động nào được chủ sử dụng ký hợp đồng, đóng BHXH. Thậm chí có đưa ra hợp đồng lao động thì LĐGVGĐ cũng không muốn ký. Trong khi đó, cho đến thời điểm này, tại Việt Nam chưa có cơ quan quản lý nào nắm được số lượng chính xác có bao nhiêu người đang làm GVGĐ.

Nguồn lực theo dõi lĩnh vực lao động tại địa phương mỏng, bà Ngọc Anh cũng chia sẻ mỗi cán bộ lao động ở phường, xã “ôm khoảng 30 đầu việc”, lấy đâu sức mà nắm cả những lao động phi chính thức, nhất là khi việc khai báo với chính quyền địa phương nơi đến, nơi đi của cả người sử dụng lao động và người GVGĐ vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc, cho dù thu nhập của người LĐGVGĐ ở Việt Nam khá ổn định và không thấp hơn các ngành khác.

Năm 2012, khảo sát được mức thu nhập của LĐGVGĐ tại Hà Nội là 2,8 triệu đồng/tháng trong khi thu nhập bình quân của người dân sống tại khu vực nông thôn của Hà Nội khoảng trên 1,4 triệu đồng/tháng. Bác Nguyễn Thị Liên ở Kim Giang (Đại Kim - Hoàng Mai - Hà Nội) cho biết, mỗi tháng gia đình bác trả cho người giúp việc 3 triệu đồng để làm việc nhà, ngoài ra người giúp việc được ăn uống, sinh hoạt theo chế độ của gia đình, cũng phải vào 3 triệu đồng nữa. Như vậy công việc này còn thu nhập cao hơn nhiều ngành nghề khác, mà theo bác Liên thì “mưa không đến mặt, nắng không đến đầu”.

Rõ ràng về khía cạnh xã hội, GVGĐ cũng góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở một bộ phận dân cư, trong đó đa phần là phụ nữ nông thôn. Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông tin thị trường lao động cũng đã đưa ra dự báo số lượng việc làm trong ngành “hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình” năm 2015 sẽ tăng lên khoảng 63% so với năm 2008 (từ khoảng 157.000 lên 246.000 lao động).

Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO, việc đưa GVGĐ trở thành một nghề chính thức là vô cùng cần thiết, vì LĐGVGĐ sẽ được luật pháp bảo vệ và Nhà nước cũng sẽ thuận tiện hơn trong quản lý người lao động. Và để những quy định, những chính sách pháp luật liên quan đến LĐGVGĐ được thực thi, Bộ LĐ-TB&XH cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành 5 Điều quy định về LĐGVGĐ quy định tại Bộ luật Lao động 2012.

Cùng với đó, các chuyên gia cũng khuyến nghị cần thiết phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, phần mềm quản lý lao động phi chính thức, đưa nghề GVGĐ vào danh mục nghề quốc gia để đào tạo bài bản, để họ trở thành những lao động chuyên nghiệp, đáp ứng đòi hỏi công việc, hạn chế được thấp nhất những tranh chấp hay những thiệt hại cho cả hai bên: người sử dụng và LĐGVGĐ.

Liên quan đến vấn đề BHXH, BHYT cho người LĐGVGĐ, PGS.TS Nguyễn Hữu Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới cho biết, tại Khoản 2, Điều 181, Bộ luật Lao động 2012 đã bổ sung quy định về việc tham gia BHXH, BHYT của người GVGĐ. Người sử dụng lao động trả cho người GVGĐ khoản tiền BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật để người lao động tự lo bảo hiểm

Theo CAND Online

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh