50 năm văn học Việt Nam đổi mới và phát triển

07:39, 21/09/2025

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều- Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, khẳng định, nền văn học Việt Nam sau năm 1975 đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Không chỉ phản ánh chân thực hiện thực đất nước mà 50 năm qua, văn học còn đồng hành cùng công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, góp phần bồi đắp bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhiều tác phẩm giá trị đã ra đời, trở thành nền tảng quan trọng cho chiến lược phát triển văn học trong giai đoạn hội nhập sâu rộng.

Văn học có nhiều đổi mới, tiếp cận độc giả trẻ trong thời đại hội nhập.
Văn học có nhiều đổi mới, tiếp cận độc giả trẻ trong thời đại hội nhập.

Chuyển động của nhận thức và cảm xúc

Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức Hội thảo tổng kết văn học Việt Nam sau năm 1975 với chủ đề: “Thành tựu cơ bản của văn học Việt Nam sau năm 1975- Diện mạo, khuynh hướng và thể loại”. Theo nhà văn Nguyễn Bình Phương- Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, văn học Việt Nam 50 năm qua trải qua nhiều cung bậc của chuyển động nhận thức và cảm xúc.

Những năm đầu sau năm 1975, văn học một đằng vẫn tiếp tục theo quán tính là cảm hứng sử thi, một đằng bắt đầu rụt rè ngẫm ngợi về số phận dân tộc và thân phận mỗi con người. Và văn học chỉ thực sự có bước chuyển công khai từ thời điểm Đảng khởi xướng tinh thần đổi mới.

Đây là giai đoạn xuất hiện những tác phẩm đề cập trực diện, ráo riết về thực trạng đời sống, nó đã chạm tới nhiều vấn đề nhức nhối, nóng bỏng mà xã hội đang đối diện, như sự xuống cấp của đạo đức, sự mất giá của nhân phẩm, sự thiếu vắng lý tưởng cả của chung lẫn riêng, và nó cũng rung tiếng chuông cảnh báo về sự lãng quên quyền tự do tư tưởng cho mỗi công dân.

Nhà văn Nguyễn Bình Phương cho rằng, sau đổi mới, đất nước mạnh dạn bước tiếp vươn ra với thế giới, đó là hội nhập toàn cầu. Đây là giai đoạn bắt đầu hình thành, phân chia nhiều khuynh hướng, ở cả 3 lĩnh vực, văn xuôi, thơ và lý luận phê bình.

Từ sau năm 1975, truyện ngắn phát triển mạnh, phản ánh những biến động xã hội, đời sống thường nhật, khát vọng cá nhân và cộng đồng. Thể loại ký và truyện ký cũng ghi dấu mạnh mẽ, phản ánh chân thực những hy sinh, dấn thân trong chiến tranh và xây dựng đất nước. Văn học thiếu nhi phát triển sôi động, với nhiều tác giả gắn bó cùng độc giả nhỏ tuổi, trong đó Nguyễn Nhật Ánh là gương mặt tiêu biểu khi liên tục đạt kỷ lục phát hành.

PGS.TS Nguyễn Thành Thi cho biết, đọc lại sáng tác trong 2 giai đoạn trước và sau năm 1975 của Trần Dần, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Xuân Khánh để thấy quá trình sáng tác các tác giả này đều có sự dịch chuyển tư duy nghệ thuật từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết.

Sự chuyển dịch này trong hầu khắp các thể loại văn học Việt Nam sau năm 1975, được coi là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà. Khi các nhà văn sáng tác theo “tư duy tiểu thuyết”, nền văn học, đặc biệt là với các thể loại văn xuôi hư cấu, vận động theo xu hướng khác hẳn: xu hướng tiểu thuyết hóa.

Văn chương trong thời đại số

PGS.TS Trần Lê Hoa Tranh- Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh chia sẻ, giai đoạn sau năm 1975, đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới, việc giao lưu kinh tế, văn hóa, văn học trở nên vô cùng quan trọng, có thể xem như đây là công cuộc hiện đại hóa văn học lần 2. Sự can thiệp, giúp sức của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ thông tin khiến cho các sản phẩm văn hóa, văn học ngày càng đa dạng, thường xuyên, cập nhật.

Đặc biệt trong thời đại phát triển của AI, chat GPT, Gemini,… càng khiến cho việc tạo ra sản phẩm văn hóa trở nên tinh vi, phức tạp, thật giả đan xen. Tuy nhiên, công nghệ thông tin hay AI không thể thay thế được bản lĩnh, giá trị sống, trải nghiệm sống- điều rất cần thiết cho tố chất của người làm sáng tạo.

Từ những năm 2010-2020 Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào toàn cầu hóa, mạng Internet và mạng xã hội lan tỏa sâu rộng, đời sống xuất bản thương mại sôi động hơn. Đặc biệt, từ sau năm 2010, các diễn đàn trực tuyến, blog văn chương, nhóm phê bình trên Facebook, và gần đây là YouTube, TikTok… đã mở ra không gian phê bình “phi chính thống”, song song với phê bình hàn lâm, học thuật. Điều này tạo ra một công luận văn học mới, nơi độc giả trở thành người tham gia trực tiếp vào “thẩm định” văn học.

Văn học mạng (tản văn, light novel, webtoon) phát triển, mở ra không gian tiếp nhận mới. Đặc biệt, sự lên ngôi của review (bình luận) sách trên các nền tảng số, tác động đến thị trường xuất bản và hình thành lớp “phê bình phi chuyên nghiệp” nhưng có ảnh hưởng rộng đến độc giả và làm tăng doanh số bán sách.

Kỷ nguyên số cũng mở ra những phương thức như: Phê bình văn học số (digital literary criticism), sử dụng dữ liệu lớn (big data), kho văn bản điện tử để phân tích xu hướng sáng tác, ngôn ngữ, mạng lưới liên văn bản. Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể hỗ trợ xử lý văn bản, tìm motif, cấu trúc tự sự, từ đó mở ra phê bình định lượng.

Tuy vậy, ông Nguyễn Quang Thiều cho rằng, văn học hiện nay vẫn còn những hạn chế, thiếu vắng các tác phẩm có tầm vóc lớn phản ánh trọn vẹn hơi thở thời đại, sức lan tỏa của văn học trong xã hội chưa thật sự mạnh mẽ, sự gắn kết giữa sáng tác với nhu cầu độc giả trẻ còn nhiều khoảng trống... Đây là những thách thức đặt ra cho nền văn học Việt Nam trong chặng đường tiếp theo.

Theo PGS.TS Trần Lê Hoa Tranh, sắp tới, để phát triển văn học Việt Nam, cần chú trọng xây dựng cơ chế khuyến khích sáng tác, đặc biệt ở thể loại mới; đẩy mạnh hoạt động tăng cường quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới thông qua dịch thuật và hợp tác quốc tế.

Cùng với đó, phát triển văn học số, tận dụng nền tảng công nghệ để tiếp cận độc giả trẻ; tập trung nuôi dưỡng tài năng văn học trẻ, tạo môi trường sáng tác gắn với đời sống xã hội…

Bài, ảnh: PHƯƠNG THƯ

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh