Đầu năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu, con Phượng được hai tuổi, thằng Quân đã lên bảy. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã thiết lập bộ máy cai trị tới từng ấp từng xã.
[links()]
Tranh minh họa: TRẦN THẮNG |
3. Đầu năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu, con Phượng được hai tuổi, thằng Quân đã lên bảy. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã thiết lập bộ máy cai trị tới từng ấp từng xã.
Tại Huyền Hội, nhà nào có người theo đằng mình tập kết ra Bắc, trước cổng, trước cửa nhà đều có treo tấm biển bằng thiếc với dòng chữ màu đen “gia đình Cộng sản”.
Nhà có tấm biển ấy có nghĩa là mọi người trong nhà đều bị tề điệp theo dõi suốt ngày đêm, không được đi đâu xa ra khỏi làng khỏi ấp, muốn làm gì cũng phải trình báo.
Cụ thân anh Hưng bàn với vợ, để con dâu trốn về vùng kinh Dừa Đỏ bên Nhị Long, đút tiền làm căn cước giả, có vậy may ra mới tiện bề yên ổn làm ăn nuôi con; chứ ở với ông bà, tụi tề xã luôn hạch sách hoạnh họe, nay làm khó là gia đình từng nuôi chứa Việt Minh, mai lại hành là gia đình có con đi bộ đội tập kết ra Bắc.
Bởi vậy một nách hai con, Ba Lành bươn chải cỡ nào cũng không kiếm đủ tiền nuôi hai đứa con mỗi ngày hai bữa.
Thằng Quân lúc này đã biết đi thọt cá thòi lòi ngoài bờ kinh, biết vớt lục bình xúc cá bống trứng; suốt ngày dang đầu trần dưới kinh dưới mương, người đen nhẻm như củ co củ súng.
Con Phượng còn nhỏ chưa biết gì. Ba Lành đi làm thuê làm mướn ở đâu cũng phải tha nó theo, chặt mấy tàu dừa nước cặm chụm lại, dùng dây gân cột chân nó vô bập dừa, để nó nằm ngồi tha thẩn một mình ở đó.
Một hôm, Ba Lành đang đội khoai lang cho người ta xuống ghe, bất chợt trời đổ mưa sầm sập. Đổ xong thúng khoai, Ba Lành chạy vội tới với con.
Trời ạ. Con nhỏ đang nằm trong vũng nước. Nó cố sức bò ra ngoài để lên chỗ khô ráo, nhưng cổ chân bị buộc chặt vô bập dừa không bò được.
Người nó ướt sũng. Nó đã lã ra kiệt sức vì gào khóc gọi mẹ. Ba Lành ẵm thốc con chạy vô nhà hội đồng Thưng, van lạy bà hội đồng cho xin miếng dầu Nhị Thiên Đường, thoa ngực, thoa lưng, thoa hai gan bàn chân cho con.
Bà hội đồng Thưng quậy cho con nhỏ ly sữa, nhìn Ba Lành mà nói: “Lần sau bây đi đâu, làm gì, nhớ tìm cuộc đất nào khô ráo hay gốc cây nào có bóng mát, để con ở đó; lóng rày đã bắt đầu mùa mưa, ai đời lại để con nơi đất thấp”.
Hơn tháng sau, Ba Lành nhận đi lên liếp cho người ta trồng đậu bắp. Thấy đầu giồng có cây dái ngựa, bèn cột chân con gái ngồi chơi ở đó, yên tâm cặm cụi phơi nắng lên liếp cho người ta. Chừng nắng lên cao gần đầu người, nhớ tới đứa con, Ba Lành buông cuốc chạy đến với con. Trời ơi là trời. Con nhỏ nằm ngất xỉu.
Da mặt tím tái. Miệng nó cắn chặt đuôi một con rít to như ngón tay người lớn. Chắc nó thấy con rít mới đưa tay chụp, bị rít cắn nên cắn lại. Chật vật lắm Ba Lành mới bóp nát đầu con rít, gỡ được con rít ra khỏi hàm răng con gái.
Tối đó thằng Quân thức canh em gái với mẹ. Nó vò đầu bứt tai nhìn em gái rồi nói với mẹ. “Mẹ à, từ mơi con không đi bắt cá nữa. Mẹ đi đâu con theo đó, con ngồi giữ em cho mẹ”.
Ba Lành xoa đầu con. Thằng nhỏ sao mà giống tía nó y hệt. Hai con mắt, hai lỗ tai, cái miệng, cái mũi, giống y chang không xê một nét. Ông ơi, bao giờ ông mới về, bao giờ mẹ con tui mới hết khổ ông ơi.
Hết khổ sao được. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã bắt đầu ruồng bố nơi này nơi nọ, đã tăng cường rà siết các gia đình dính líu đến cách mạng. Ai đó đã đang tâm chỉ điểm, đã khai báo với tụi công an tề xã, Ba Lành có chồng tập kết ra Bắc.
Trưởng ấp Kinh Dừa Đỏ vốn biết ông Hưng thuở nhỏ, muốn che chở cho Ba Lành, nhưng thằng xã trưởng không chịu. Nó lên giọng: “Hai con bà Lành đã lớn, bả không đi bước nữa là ở vậy đợi chồng”. Gái hai con trông mòn con mắt. Phải như người ta, chồng chết đã lâu, người ta đã đi lấy chồng.
Thằng xã trưởng lập danh sách bà Lành thuộc diện cần phải ly khai khỏi gia đình Cộng sản. Nó sai thằng công an xã xuống thả dê bà Lành. Thằng này vừa ngon ngọt dụ dỗ, vừa tìm cách hăm dọa. Nó nhiều lần nói với bà Lành.
Rằng muốn sống nuôi con, bà phải bỏ chồng cách mạng, phải có chồng mới, tốt nhất là có chồng thuộc chánh quyền quốc gia. Bấy giờ đã bước sang năm 1959.
Mỹ Diệm đã lê máy chém đi khắp nơi, lùng sục tận hang cùng ngõ hẻm, với khẩu hiệu thà giết nhầm còn hơn để sót. Ở Càng Long, nhiều người bị Mỹ Diệm chặt đầu cắm cọc tre phơi nắng.
Chết chóc bao trùm. Dân tình trăm bề khổ cực. Gia đình ông Hưng bị bắt bớ đánh đập, không dám nhận con dâu, sợ liên lụy làm khổ cho hai đứa cháu nội.
Gia đình bà Lành càng khổ hơn. Cụ thân sinh bị tố là người cầm đầu Việt Minh, dẫn đầu đoàn người cướp chính quyền tại ấp Lo Co, rồi theo liên trung đoàn 109-111 tham gia chiến dịch Cầu Kè, chỉ huy cấp đại đội đánh trận La Bang ở Trà Cú.
Chánh quyền Diệm bắt ông cụ chở về Trà Vinh thủ tiêu mất xác. Bà cụ bị cuộc cảnh sát Càng Long giam giữ, tra tấn đánh đập đến bại liệt nằm một chỗ.
Ở Càng Long bấy giờ, nhiều gia đình cha con, chồng vợ không dám nhận mặt nhau, nhiều người thân ruột thịt không dám nhìn nhau là bà con. Tình cảnh cơ cực đến khốn cùng. Hoàn cảnh bà Lành càng trở nên bết bát hơn, bởi bà vừa là con ruột gia đình Cộng sản, con dâu gia đình Cộng sản, lại có chồng tập kết ngoài miền Bắc.
Đã vậy, bà Lành còn phải luôn tìm cách trốn tránh tay Ủy viên cảnh sát xã Nhị Long. Cũng may là thằng này có bà vợ ghen động trời.
Bà ta biết mình già hơn bà Lành, lại đã sanh nở tới sáu lần, thân thể bề xề, núc ních những mỡ là mỡ, nên bà ta mượn thế gia đình cha mẹ ruộng đất bề bề, dọa chồng mà léo hánh với ai, bả sẽ thuê người cắt phăng cục của nợ.
Thằng cảnh sát bởi vậy cũng dè chừng, cũng còn coi trước ngó sau; nhưng súng ống trong tay nó, quyền lực trong tay nó, lại được thằng xã trưởng hấp hơi, làm sao biết trước được điều gì sẽ xảy ra.
Giáp vòng Càng Long, đã có mấy người là vợ bộ đội tập kết, bị tụi nó dùng chiến tranh tâm lý, đoạt làm vợ nhỏ. Tụi nó cưới để phá hoại hạnh phúc nhà người ta, chứ tụi nó yêu gì người ta.
Giữa cơn cùng cực ấy, con Phượng đã năm sáu tuổi, lại ngã bịnh đau ban đỏ. Nhà không còn hột gạo, không có lấy một đồng một cắc, bà Lành chạy đôn chạy đáo khắp nơi cũng đành bó tay.
Chợt nhớ tới nhà vợ chồng hội đồng Thưng, bà Lành trùm kín con bằng cái áo cánh phin màu gụ, ẵm con xấp xải chạy băng giồng khoai lang đi nhờ cậy.
Chưa tới cây dái ngựa giữa giồng đất, con Phượng đã cong người giật giật trong tay bà, tấm thân gầy đét của nó hết nóng hầm hập lại lả ra lạnh buốt; hai mắt con Phượng trợn ngược, mồm sùi bọt mép trắng xóa. Ráng chạy tới gốc cây, bà Lành đặt con xuống đất, ngồi phịch xuống gào thét.
“Con ơi! Con ơi! Đừng bỏ mẹ, Phượng ơi!” Bà đang cuống cuồng vái lạy trời đất, bỗng có anh nông dân ở đâu xuất hiện. Hiểu ra sự tình, anh nông dân ẵm thốc đứa bé, guồng chân chạy ngược về phía kinh Dừa Đỏ.
Trong ngôi nhà lợp lá dừa, mẹ anh ta quậy nước đường đổ vào miệng con Phượng, dùng tay vỗ ngực vỗ lưng nó, dùng khăn xô lau miệng nó.
Sai con trai hút đờm dãi trong miệng trong mũi cho con Phượng. Được một lúc thì con Phượng mở hé hai con mắt, cất tiếng gọi thều thào yếu ớt: “Mẹ ơi!” Bà Lành ngồi sụp xuống đất, chắp tay gập người vái lạy bốn phương tám hướng như tế sao trên trời. Anh nông dân đỡ bà Lành đứng dậy.
Biết bà Lành chưa ăn gì, lấy đỡ cho chị chén cơm nguội, ăn với ơ cá kho mặn, rau dừa chấm mắm nêm. Rồi thì anh ta nấu nồi cháo đậu xanh cà, luộc giùm vào đó cho mẹ một hột trứng gà. Cháo chín, anh ta múc ra một chén quậy đường, chăm chú ngồi đút cho con nhỏ húp từng muỗng.
Còn trứng hột gà, anh ta theo lời mẹ, lột vỏ cần mẫn lăn khắp người con Phượng. Xong xuôi mọi việc, anh ta hỏi nhà bà Lành còn ai không. Biết nhà bà Lành còn thằng Quân cũng chưa ăn gì, anh ta vét nốt chỗ cơm nguội bỏ vào cặp lồng, cùng mấy khứa cá, ẵm con Phượng theo bà Lành về nhà.
Thấy trong căn lều lụp xụp của bà Lành trống lơ trống lốc, khạp gạo không còn một hột, anh ta liền trở về xúc đem qua cho mẹ con chị đâu chừng chục lít, cùng nồi cháo đậu xanh vừa nấu xong lúc nãy. Trong cơn hoạn nạn, bà Lành như người sắp chết đuối gặp được cứu tinh; nhờ vậy mà ba mẹ con thoát qua cơn đói kém.
Người ta nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Con Phượng vừa khỏi bịnh ban đỏ chưa được một tháng, lại chuyển sang bịnh đau ban trắng. Lần này bịnh nặng hơn.
Bà Lành vét mớ tiền vừa kiếm được do đi rửa chén thuê cho quán cháo lòng ngoài chợ xã, mua mấy viên thuốc tán đem về pha cho con uống.
Con Phượng vừa uống vào đã nôn thốc nôn tháo ra ngoài. Hết thuốc, con Phượng lả ra mềm oặt, người nóng như đổ lửa, hai môi khô ran nứt ra chảy máu.
Chị bạn cùng làm thuê với bà Lành nói: “Con nhỏ nóng sốt cỡ này, hổng có thuốc hạ nhiệt, làm sao qua khỏi”. Con gái chị ta năm ngoái đau ban nóng sốt như cục than hầm, không có thuốc hạ nhiệt, đã thiêm thiếp ra đi trong vòng tay chị.
Bà Lành sờ khắp người con, thấy con nóng hầm hập như bị lửa đốt thì hồn xiêu phách lạc. Thằng Quân ngồi xớ rớ dưới chân em gái trên bộ ván cồng, hai mắt đỏ hoe, lặng lẽ khóc thút thít.
Bấy giờ ông Bường đạp cái xe đòn vông ngang qua, tự nhiên ghé vào tính xin uống gáo nước lóng phèn, thấy vậy nói. “Để tui chạy ù lên chợ xã. Biết đâu cầm được cái xe, mua cho con nhỏ liều thuốc hạ nhiệt”.
Ông ta vừa nói chưa dứt lời thì anh nông dân Ba Đức bữa nọ xuất hiện. Anh ta vét túi áo túi quần được mớ tiền, đưa hết cho ông Bường, nhờ ông Bường chạy nhanh đi mua thuốc đem về cho kịp.
Rồi anh ta ngồi quỳ dưới đất, ghé miệng hút đờm dãi cho con nhỏ. Được một lúc thì ông Bường trở về cùng mấy gói thuốc tán. Bà Lành vội vàng pha cho con uống.
Vừa đút cho con từng muỗng thuốc, bà Lành vừa khóc lóc van vái. “Cầu trời khấn phật phù hộ độ trì cho con tui tai qua nạn khỏi, đừng để con tui lại ói thuốc ra ngoài! Nó mà có bề gì, chừng ổng về tới, tui biết ăn nói ra làm sao”.
Lạ thiệt. Con Phượng uống hết chỗ thuốc mà không ói, không trớ ra ngoài một giọt. Uống hết chỗ thuốc, nó ngật đầu sang một bên, nằm ngay đơ như khúc gỗ. Ba Lành ngồi phía trên xoa đầu cho nó. Ba Đức ngồi phía dưới xoa hai bàn chân cho nó.
Bà bạn làm thuê cùng ông Bường thấy trời sập tối nên đã ra về. Căn nhà xập xệ chập choạng lửa rọi mù u. Thằng Quân vẫn ngồi bó gối sát bên vách lá.
Hai mắt vẫn mở thao láo nhìn em gái, nhưng thực ra nó đã ngủ gục từ lúc nào. Bấy giờ thằng cảnh sát đội nón rộng vành, đeo xề xệ khẩu côn đuôi, với thằng đàn em xách khẩu cạc-bin M1 bước vào.
Thằng cảnh sát hết nhìn chằm chặp vào Ba Lành, lại nhìn chằm chặp vào Ba Đức, rồi phẩy tay nói khẩy: “Vậy được rồi. Vậy tui đã có cái báo cáo về trên chi rồi. Khỏi mất công bà xã tôi làm mình làm mẩy”. Hai thằng cảnh sát bất ngờ kéo đến, bất ngờ bỏ đi. Còn lại là thằng Quân đã lật ngang ra ngủ. Còn lại là Ba Lành với Ba Đức lặng im ngồi canh chừng giấc ngủ mê mệt của con nhỏ Phượng cho đến sáng.
4. Chiều đó, ông Hưng một mình ẵm con Phượng Nhỏ qua nhà bà Lành. Mới tới đầu ngõ, con bé Phượng Nhỏ đã liến láu reo ầm lên: “Bà ngoại! Bà ngoại! Ông Ba qua nhà mình ăn cơm nè bà ngoại!” Ba Lành đã sắp sẵn cơm chiều.
Có cá rô kho tộ. Có cá lóc canh bầu. Có cả con vịt xiêm vừa luộc vừa nấu cháo đậu xanh. Bộ đồ lòng con vịt thì xào mướp hương. Ba Lành với Ba Đức ngồi ngay ngắn hai bên cái bàn kê giữa nhà. Con Phượng đứng bên ngạch cửa. Thằng Quân đứng ở mép đầu bàn.
Cả hai cùng lúc khoanh tay cúi đầu nói nhỏ: “Mừng ba đã về”. Ông Hưng hơi cúi người đặt con Phượng Nhỏ xuống đất, rồi đứng thẳng người nhìn con trai nói nhỏ nhẹ: “Thằng Quân chạy đi mua giùm ba lít rượu về uống mừng ngày họp mặt”.
Ba Đức đứng dậy kính cẩn đưa tay mời ông Hưng ngồi và nói: “Khỏi. Tui mua sẵn cả can rượu Xuân Thạnh nước nhứt rồi”.
Ông Hưng vừa ngồi xuống kế Ba Đức vừa nói: “Có rượu Xuân Thạnh xứ mình à? Vậy con Phượng chạy về nhà ông nội, mời bạn chiến đấu của ba qua ăn mừng sum họp luôn thể. Ba mươi năm mới có một ngày. Lẹ đi con!” Quân nghe vậy thì lên tiếng: “Ba để con đi luôn. Hai đứa con cùng qua mời cho trang trọng”.
Khi Quân và Phượng đã khuất bóng khỏi kinh dừa nước, Ba Đức lại đứng dậy, kính cẩn nói với ông Hưng: “Hồi đó tui với bả xáp lại ở với nhau, chớ cưới hỏi gì đâu.
Nay ông đã về, mọi chuyện là tùy ở ông”. Ông Hưng vỗ vai Ba Đức cười khà khà: “Thôi ông ơi. Chiến tranh có quy luật của nó. Hồi đó ông không đến với bả, làm sao bả đủ sức nuôi con giùm tui. Nay ông với bả đã có thêm với nhau hai người con, hổng lẽ tui xía vô phá đám.
Khổ đau nào cũng là khổ đau của dân tộc mình. Hạnh phúc nào cũng là hạnh phúc của dân tộc mình.” Ba Lành nãy giờ ngồi im, bấy giờ mới nhìn hai người đàn ông lên tiếng: “Hai mốt năm rồi. Tụi mình già hết rồi. May mà hồi đó, Ba Đức có trong túi năm cắc hay năm đồng gì đó, chứ không con Phượng làm gì còn tới hôm nay. Được như vầy là cả nhà ta đại hồng phúc. Còn gì hơn nữa!”
Ba Đức cầm gói Capstan rút ra một điếu, nhưng nghĩ sao lại đút vào gói thuốc, móc trong túi ngực ra bịch thuốc giồng, xé miếng giấy quyến vấn một điếu sâu kèn, vừa xe xe vừa nói: “Ngộ thiệt. Tới giờ tui cũng không nhớ trong túi tui lúc đó có năm cắc hay năm đồng. May ra chỉ có ông Bường mới biết. Mà ông ấy đã chết trong trận tụi Trung đoàn 10 Sư 7 càn vô kinh Dừa Đỏ.
Trận ấy, chồng con Phượng là bộ đội Tiểu đoàn 306 cũng hy sinh, lúc nó ôm B41 bắn tàu sắt dưới sông. Tui với thằng Quân là du kích phối thuộc, bom đạn ì đùng mà không rớt một sợi lông chưn”.
Ông Hưng cũng vấn một điếu thuốc giồng, vừa nhả khói phì phà vừa nói: “Chuyện gì cũng có thể quên. Chuyện gì cũng có thể nhớ. Năm cắc hay năm đồng cũng như nhau. Nhờ năm cắc hay năm đồng ấy mà con gái tui được sống.
Nhờ năm cắc hay năm đồng ấy mà hôm nay chúng ta thành người trong một nhà. Thôi, mình uống trước với nhau một ly, mừng chuyện năm cắc hay năm đồng ấy đi Ba Đức!”
Ngoài ngõ, đã nghe tiếng thằng Quân, con Phượng với hai đứa con của Ba Đức ồn ã nói chuyện với người bạn đồng đội của ông Hưng. Con Phượng Nhỏ ngồi lọt thỏm trong lòng bà ngoại, hai con mắt to tròn lóng lánh, hết nhìn ông ngoại Ba Hưng lại nhìn ông ngoại Ba Đức.
Đêm Càng Long trùm xuống mát rười rượi. Bầu trời lấm tấm muôn vàn vì sao như dát vàng dát bạc.
Vĩnh Long, ngày 11 tháng 10 năm 2019
HỒ TĨNH TÂM
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin