Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long-dấu ấn không phai

10:11, 17/11/2020

Lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng có rất nhiều sự kiện mang đậm dấu ấn lịch sử, chứa đựng những bài học kinh nghiệm có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta. Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long ngày 23/11/1940 là một trong những sự kiện tiêu biểu để lại dấu ấn không phai của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng có rất nhiều sự kiện mang đậm dấu ấn lịch sử, chứa đựng những bài học kinh nghiệm có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta. Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long ngày 23/11/1940 là một trong những sự kiện tiêu biểu để lại dấu ấn không phai của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1940, tình hình chính trị thế giới và trong nước diễn biến phức tạp. Tháng 6/1940, phát xít Đức chiếm nước Pháp. Tháng 9/1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt đầu hàng Nhật, mặt khác thẳng tay đàn áp cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản, chúng thiết lập ở Đông Dương chế độ phát xít cực kỳ tàn bạo.

Đầu năm 1940, tại Hội nghị Đảng bộ Vĩnh Long bàn về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược hoạt động. Đến cuối tháng 7/1940, đồng chí Tạ Uyên thay mặt Xứ ủy Nam Kỳ về phổ biến chủ trương khởi nghĩa Nam Kỳ cho Tỉnh ủy Vĩnh Long. Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy Vĩnh Long tổ chức hội nghị họp bàn và thảo luận kế hoạch khởi nghĩa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.

Đồng chí Thái Văn Đẩu- Bí thư Tỉnh ủy- làm Trưởng ban khởi nghĩa; đồng chí Ngô Thị Huệ- Phó Bí thư- làm Phó ban, trực tiếp lãnh đạo tỉnh lỵ và quận Châu Thành; đồng chí Nguyễn Thị Hồng- Tỉnh ủy viên, Bí thư Quận ủy Vũng Liêm- trực tiếp lãnh đạo quận Vũng Liêm; đồng chí Nguyễn Văn Nhứt (Nguyễn Hiếu Tự)- Tỉnh ủy viên, Bí thư Quận ủy Tam Bình- trực tiếp lãnh đạo quận Tam Bình.

Mục tiêu của khởi nghĩa là chiếm những nơi yết hầu của địch, giải thoát các đồng chí trong nhà tù, phá hệ thống giao thông, liên lạc nhằm cản bước tiến quân và rút lui của địch; khi khởi nghĩa thành công thì thành lập chính quyền công- nông- binh theo hình thức Xô Viết.

Đầu tháng 11/1940, kế hoạch khởi nghĩa ở tỉnh và các quận được đề ra, phân công cụ thể, lực lượng khởi nghĩa sẵn sàng hành động khi có lệnh của Xứ ủy Nam Kỳ. Đúng 10 giờ ngày 22/11/1940, nữ đồng chí Mão mang lệnh khởi nghĩa về đến cơ quan Liên Tỉnh ủy ở Tam Bình (Vĩnh Long). Các lực lượng khởi nghĩa sẵn sàng đợi giờ thống nhất là đúng 12 giờ đêm ngày 22/11/1940 sẽ khởi nghĩa giành chính quyền theo kế hoạch đã định.

Khởi nghĩa ở tỉnh lỵ Vĩnh Long và quận Châu Thành

Kế hoạch khởi nghĩa ở tỉnh lỵ bị lộ(*), địch chuẩn bị đối phó. Ban Khởi nghĩa ở tỉnh lỵ đã chuyển hướng hành động, cử 2 đồng chí Nguyễn Hùng Phước và Nguyễn Hùng Minh đột phá lên bến phà Mỹ Thuận nhằm chặn đường tiến quân của địch từ Sài Gòn xuống. Tuy nhiên, 2 đồng chí không đến được bến phà Mỹ Thuận vì không vượt qua được tuyến canh phòng dày đặc của địch.

Thời gian này, đồng chí Ngô Thị Huệ dẫn một toán khoảng 50 người tiến công quận lỵ Long Hồ, phá cầu Ông Me và cầu Long Hồ, đốt sổ sách giấy tờ ở trụ sở làng Long Hồ, cắt đường dây điện thoại, đốn cây và đem đồ vật dựng chướng ngại vật trên đường lộ, cản mũi tiến quân của địch. Sáng 23/11/1940, cánh quân này rút về vùng Rừng Dơi (xã Phước Hậu, quận Châu Thành).

Tại đây, Ban Lãnh đạo khởi nghĩa quận Châu Thành và Ban Khởi nghĩa tỉnh lỵ bàn cách giữ liên lạc giữa tỉnh và huyện, bàn cách tước vũ khí của hội tề. Tối 23/11/1940, lực lượng này đánh chiếm trụ sở Chánh Hội (Cái Nhum) đốt hết sổ sách, giấy tờ, thu 2 súng. Như vậy, lực lượng khởi nghĩa ở quận Châu Thành và tỉnh lỵ Vĩnh Long tuy không đánh chiếm được tỉnh lỵ nhưng làm tiêu hao một số sinh lực địch, phá hủy 2 cầu sắt, đánh sập 2 trụ sở xã và đốt toàn bộ sổ sách ở 2 trụ sở và thu 2 súng.

Khởi nghĩa ở quận Tam Bình

Tại quận Tam Bình, khởi nghĩa chia thành 3 mũi tấn công. Mũi thứ nhất có 90 người, do đồng chí Nguyễn Văn Nhứt chỉ huy, có nhiệm vụ đánh vào dinh quận và trại lính.

Mũi thứ hai có 30 người, do đồng chí Đặng Văn Chính chỉ huy, có nhiệm vụ đánh chiếm đồn Trà Luộc. Mũi thứ ba có 30 người, do đồng chí Phan Văn Đáng (Hai Văn) chỉ huy, nhiệm vụ đánh trụ sở làng Mỹ Thạnh Trung và chặn đường tiếp viện của địch từ tỉnh lỵ Vĩnh Long vào quận lỵ Tam Bình.

Đúng 12 giờ đêm 22/11/1940, cả 3 mũi được lệnh tiến công địch. Mũi thứ nhất tấn công vào quận lỵ Tam Bình, chiếm được trại lính. Địch dựa vào công sự chống trả, quân ta đã giằng co với địch suốt 4 giờ liền, địch rút quân vào cố thủ trong dinh quận chờ tiếp viện. Sau đó, địch điều một đơn vị lính Pháp từ tỉnh lỵ Vĩnh Long xuống cứu nguy cho đồng bọn. Quân ta rút lui.

Các mũi khác cũng giành được kết quả như chiếm đồn Trà Luộc, thu một khẩu súng và đốt hết sổ sách tại trụ sở xã Mỹ Thạnh Trung, phá hủy các cầu: Cái Sơn, Bằng Tăng, Ba Kè và đốn cây, chặt chướng ngại vật trên nhiều tuyến đường.

Như vậy, khởi nghĩa ở Tam Bình diễn ra khá sôi động trên địa bàn quận lỵ Tam Bình nhưng quân ta chưa đánh chiếm được dinh quận và chưa làm chủ được các mục tiêu ở quận lỵ. Mặc dù vậy, khí thế của khởi nghĩa làm cho quân thù khiếp sợ, hoang mang.

Ở Cái Ngang, vào khoảng 12 giờ đêm 22/11/1940, lực lượng của ta có khoảng 100 người do đồng chí Gia (Bí thư Chi bộ làng Phú Lộc Cựu) lãnh đạo, cùng một toán du kích xã Mỹ Lộc do đồng chí Nguyễn Văn Tiễn (Tám Thới) chỉ huy đánh đồn địch, bắt sống một số lính, thu 5 khẩu súng và làm chủ Cái Ngang trong 17 giờ liền. Thực dân Pháp tức điên cuồng, quyết tâm dập tắt khởi nghĩa ở Cái Ngang.

Vào lúc 17 giờ chiều 23/11/1940, thực dân Pháp điều một tàu chở đầy lính từ tỉnh lỵ Vĩnh Long mở đợt tấn công thứ ba vào thị trấn Cái Ngang, quyết tâm tiêu diệt lực lượng khởi nghĩa của ta. Quân ta đánh trả lại quyết liệt, nhưng do vũ khí thô sơ và lực lượng tổn thất nên ta rút lui về căn cứ Cây Điều - Cái Bần để bảo toàn lực lượng. Thực dân Pháp chiếm lại thị trấn Cái Ngang, chúng điên cuồng cướp bóc tài sản nhân dân, đốt phá toàn bộ nhà cửa tại chợ Cái Ngang.

Khởi nghĩa ở quận Vũng Liêm

Lực lượng khởi nghĩa ở Vũng Liêm chia thành 3 mũi. Đúng 12 giờ đêm 22/11/1940, mũi thứ nhất có 80 người do đồng chí Nguyễn Thị Hồng- Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Vũng Liêm- chỉ huy tiến công vào quận lỵ Vũng Liêm. Lực lượng khởi nghĩa xông vào đánh chiếm dinh quận, trại lính, trạm bưu điện.

Trước khí thế sôi sục của quân ta, binh lính địch và Quận trưởng Hải hoảng sợ chạy trốn, không dám chống cự. Lực lượng khởi nghĩa thu 5 khẩu súng, thiêu hủy hồ sơ và đốt dinh quận. Chỉ trong vòng 90 phút, lực lượng khởi nghĩa đã chiếm toàn bộ quận lỵ Vũng Liêm và làm chủ trong 8 giờ liền. Lần đầu tiên cờ cách mạng tung bay ở quận lỵ Vũng Liêm.

Mũi thứ hai có 30 người, do đồng chí Nguyễn Văn Nhung, Phan Ngọc Yến và đồng chí Trần Văn Viên phụ trách, hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồn Trung Ngãi, làm chủ tình hình, chủ động đánh quân can viện từ Trà Vinh lên.

Mũi thứ ba có 30 người, do đồng chí Hồ Chí Thiện (Năm Tép) và Phan Văn Hòa (tức Võ Văn Kiệt) có nhiệm vụ đánh phá khu vực phà Nước Xoáy và ngăn chặn đường chi viện địch từ Vĩnh Long xuống.

Tại đây, lực lượng ta có 150 người, 12 giờ đêm 22/11/1940, nổ súng tiến công, đánh chiếm được bến phà. Sau đó, lực lượng khởi nghĩa vượt sông, chiếm đồn Nước Xoáy (Hòa Hiệp- Tam Bình) diệt 5 tên địch và thu 3 khẩu súng, đục thủng 2 chiếc phà qua sông Mang Thít, cắt dây thép, cắt đứt giao thông từ Vĩnh Long xuống Trà Vinh.

Đồng chí Nguyễn Văn Đốc và Lê Văn Tú chỉ huy khởi nghĩa ở làng Hồi Luông, bao vây tề xã treo cờ cách mạng, hợp mít tinh mừng thắng lợi. Quân ta đã kéo đổ được hàng chục cột dây điện và đốn cây làm chướng ngại vật trên lộ chặn đường chi viện của địch. Du kích các làng Hiếu Thành và Quới Thiện và ngã tư Nhà Dài.

Tại quận lỵ Vũng Liêm cũng như các làng Quới Thiện, Trung Ngãi, Hiếu Thành, Hồi Luông,… nhân dân khởi nghĩa thắng lợi làm chủ tình hình, giải tán bộ máy tề ngụy, làm chủ xóm ấp.

Sáng 23/11/1940, địch điều lính từ Trà Vinh về và từ Vĩnh Long xuống chi viện cho quận lỵ Vũng Liêm. Ban Chỉ huy khởi nghĩa Vũng Liêm phát hiện được âm mưu của địch, cử tổ du kích phá cầu Mây Tức và chặn đường tiến của quân Pháp.

Cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân ta chiến đấu rất dũng cảm, song do lực lượng quá chênh lệch nên để bảo toàn lực lượng, Ban Chỉ huy khởi nghĩa ra lệnh cho lực lượng rút quân về đồng Cà Dăm (làng Trung Ngãi). Tại đây, ta vừa tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ cách mạng, vừa phục kích đánh địch và chuẩn bị lực lượng, chờ lệnh mới. Sau gần 1 tháng, ta chia nhỏ lực lượng, tỏa về các địa phương để hoạt động.

Khởi nghĩa ở Trà Ôn

Quận Trà Ôn và Cầu Kè (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ) được Tỉnh ủy Cần Thơ phân công phối hợp cùng với lực lượng quận Cầu Kè đánh chiếm quận lỵ Cầu Kè. Quận Cầu Kè được xác định là trọng điểm thứ hai của Tỉnh ủy Cần Thơ, do đồng chí Đoàn Bá Lợi- Phó Bí thư Tỉnh ủy- trực tiếp chỉ đạo.

Ban lãnh đạo nhận được lệnh khởi nghĩa vào lúc 10 giớ sáng 23/11/1940. Đồng chí Đoàn Bá Lợi đã họp Ban lãnh đạo triển khai kế hoạch khởi nghĩa mặc dù lệnh đến trễ.

Lực lượng các làng An Phú Tân, Tam Ngãi, Hòa Ân, Hựu Thành có nhiệm vụ chiếm quận lỵ Cầu Kè. Ngoài ra, Ban lãnh đạo còn phân công đồng chí Trần Vĩnh Miêng huy động lực lượng du kích làng Trà Côn đến hỗ trợ quận lỵ Cầu Kè. Tuy nhiên, việc chuẩn bị khởi nghĩa tại Vĩnh Xuân bị lộ, không tiến hành được.

Đêm 23/11/1940, lực lượng khởi nghĩa ở Trà Côn do đồng chí Trần Vĩnh Miêng lãnh đạo tổ chức được hàng trăm người từ Trà Côn, Thuận Thới, Hựu Thành kéo về quận lỵ Cầu Kè. Khi đến Giồng Lớn thì được tin cuộc khởi nghĩa ở quận lỵ Cầu Kè thất bại, gặp lính quận đi tuần tra nên phải quay lại.

Đến 24/11/1940, được tin các cuộc khởi nghĩa ở Tam Bình, Vũng Liêm, Cầu Kè đều bị thất bại, nên Trà Côn không khởi nghĩa. Tuy nhiên, các chi bộ xã cũng lãnh đạo nhân dân hưởng ứng tích cực cuộc khởi nghĩa bằng cách đặt chướng ngại vật trên đường, treo biểu ngữ, rải truyền đơn,…

Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long thất bại, thực dân Pháp huy động lính Pháp, lính lê dương và bọn phản động ở địa phương, tiến hành đợt khủng bố trắng. Chúng truy lùng quân khởi nghĩa và bắt những người từng ủng hộ khởi nghĩa.

Khi bắt được những đảng viên cộng sản hoặc quần chúng cách mạng, chúng tra tấn dã man. Hậu quả khủng bố trắng của thực dân Pháp ở Vĩnh Long, đặc biệt là quận Vũng Liêm, Tam Bình đã làm cho cách mạng gặp nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1940 đầu năm 1941, phần lớn cơ sở đảng trong tỉnh Vĩnh Long bị đánh phá và tan vỡ, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, chờ thời cơ mới.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc nổi dậy kế tục và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc ta, chiến đấu dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trang sử oanh liệt và đau thương của nhân dân tỉnh Vĩnh Long, những người đã đứng lên chấp nhận hy sinh quyết giành lại độc lập dưới ngọn cờ cộng sản. Qua khởi nghĩa Nam Kỳ, đảng viên và quần chúng cách mạng được tôi luyện, được thử thách và trưởng thành. Sự đàn áp hết sức dã man và tàn bạo của kẻ thù làm nổi bật lên sự dũng cảm của nhân dân, sự hy sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên ở tỉnh Vĩnh Long.

Khởi nghĩa Nam Kỳ là biểu trưng cho tầm vóc cao lớn và uy tín sâu rộng của Đảng đối với nhân dân tỉnh Vĩnh Long trong suốt quá trình vận động cách mạng, từ Tỉnh ủy đến các chi bộ và từng đảng viên, thể hiện được tinh thần cách mạng tiến công của Đảng, tinh thần quật khởi của dân tộc ta. Tinh thần chiến đấu anh dũng của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở tỉnh Vĩnh Long tạo nên dấu ấn không phai trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long tuy thất bại, nhưng góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của nhân dân trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long đã đi cùng dân tộc trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ “Thành đồng Tổ quốc” và sẽ tiếp tục đồng hành cùng đất nước trên con đường xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

NGUYỄN MINH THUẬN

(*) Chiều ngày 22/11/1940, đồng chí Tạ Uyên và đồng chí Phan Đăng Lưu bị bắt.

 

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh