Đỉnh lũ tình người

04:05, 19/05/2019

Vợ chồng thầy giáo trẻ về dạy ở cù lao Ông Hổ. Từ tả ngạn sông Tiền qua bờ Tây sông Hậu phải vượt qua cù lao Ông Chưởng nằm chắn ngang con sông Hậu. Hai con đò Hành Dinh và Tư Nỉ đưa vợ chồng thầy giáo trẻ đi về hàng tuần nhưng chắc chẳng ai biết họ là giáo viên nếu chỉ nhìn sơ vẻ bề ngoài…

Mùa nước nổi năm 1984…

Vợ chồng thầy giáo trẻ về dạy ở cù lao Ông Hổ. Từ tả ngạn sông Tiền qua bờ Tây sông Hậu phải vượt qua cù lao Ông Chưởng nằm chắn ngang con sông Hậu. Hai con đò Hành Dinh và Tư Nỉ đưa vợ chồng thầy giáo trẻ đi về hàng tuần nhưng chắc chẳng ai biết họ là giáo viên nếu chỉ nhìn sơ vẻ bề ngoài…

Tranh minh họa: Trần Thắng (TP Vĩnh Long)
Tranh minh họa: Trần Thắng (TP Vĩnh Long)

Hồi ấy, khi thầy còn học lớp mười hai, cả nhóm bạn thầy đều thi sư phạm và thầy thấy thế đi thi theo chứ cũng chả nghĩ là thi để làm thầy giáo. Nhà thầy trước đây đâu có nghèo- đó là một tiệm tạp hóa kết sù bậc nhất ở miệt cù lao Ông Chưởng.

Gia đình làm ăn suy sụp rồi cùng nhau về quê nội Mỹ Luông sinh sống bằng nghề làm ruộng. Với mười mấy công ruộng nhưng gần mười miệng ăn. Mọi thứ trở nên khó khăn và chật vật hơn.

Thầy gặp cô trong trường sư phạm. Thương nhau rồi đến với nhau. Sau đám cưới, thầy và cô được phân công về đất cù lao dạy. Từ trường về nhà gần ba chục cây số, mà còn phải vượt hai con đò nên thầy xin trường cho ở lại trong một căn phòng học nhỏ còn dư nên bỏ trống.

Năm 1986…

Cô và thầy có con. Chẳng biết đó là tin vui hay tin buồn với thầy và cô lúc này. Thế là mỗi tuần, vợ chồng người giáo trẻ lại khăn gói về nhà một lần. Đường từ Mỹ Luông đến cù lao đều là đường đá lởm chởm. Thầy cô chỉ có chiếc xe đạp là phương tiện đi lại mà cũng là thứ quý giá nhất của họ.

Vợ chồng thầy đèo nhau suốt quãng thời gian qua. Cô giáo có thai, nhưng biết phải làm sao khi đồng lương ít ỏi. Vợ chồng cất mót tiền lo sinh con đôi khi quên cả việc lo miếng cơm manh áo cho bản thân mình.

Thai nhi bảy tháng rưỡi, cô sinh. Cô sinh tại nhà của bà mụ vườn ở Mỹ Luông. Thằng bé một ký lô chín. Nó yếu quá, phải để thằng bé lên cái gối mềm rồi mới ôm nó được.

Vợ chồng thầy lo sốt ruột. Hai hôm sau, anh xe lôi trong xóm chở vợ chồng thầy qua bệnh viện Hành Dinh. Có ai tin là vợ chồng thầy giáo này đã ba tháng không có một đồng lương và giờ đưa con đi bệnh viện họ chỉ có vỏn vẹn năm chục ngàn đồng thời đó.

Anh xe lôi là bạn hồi còn nhỏ của thầy nên một mực không lấy tiền. Em trai thầy là y sĩ bệnh viện Hành Dinh nên thằng bé được vào diện cấp cứu “hộ nghèo”.

Thấy tình hình không ổn. Bệnh viện cấp giấy chuyển đi Long Xuyên. Phương tiện bằng tắc ráng nhưng máy dầu thì gia đình tự lo. Năm giờ rưỡi chiều rồi, biết đâu mà mượn máy dầu bây giờ.

Nhớ chực nhà chị Tám ở bên cầu Bà Vệ có cái máy dầu đi tắc ráng. Thầy tức tốc sang mượn. Ngồi nói vòng vo e ấp một hồi lâu, chị Tám lắc đầu:

- Anh bây khó lắm. Tối nay ổng đi biển Hồ mua cá. Bây đi về không kịp chắc ổng rầy tao. Hông ấy vợ chồng bây mướn ghe Hòa Hảo chở thằng nhỏ đi đi mà khi nào tao có tiền tao cho chứ giờ tao cũng hết tiền rồi…

Thầy đã không dám ứa nước mắt khi thấy con mình thở bằng những nhịp thở khó khăn và giờ thầy lại không dám khóc trước mặt người chị mà gia đình thầy đã từng cho cả cây vàng để chị đưa anh đi trốn vào những ngày bị giặc lùng kiếm…

Mọi thứ dường như càng lúc càng thu hẹp trước mặt vợ chồng thầy giáo trẻ. Khuôn mặt thầy đã nổi những vết chì đêm qua. Có lẽ do buồn rầu đau đớn… Giờ đây hình như thầy ốm hơn nhiều...

Cô bạn của thầy cô giáo- dâu nhà máy xay lúa cũng là đứa em kết nghĩa của thầy, ở chợ Bà Vệ, lên Hành Dinh thăm thằng nhỏ. Nó cứ chắc lưỡi trước thằng bé hoài.

Có lẽ cô giáo từng là người hết lòng với nó khi nó nằm viện ở Tân Châu. Hay vì những chuyến nó và chồng nó (lúc chưa cưới nhau) bỏ nhà đi bụi, tụi nó ở nhà thầy, nương từng bữa cơm của thầy mà giờ nó tình nghĩa với thầy:

- Khi nào tàu chạy ngang nhà em, anh cho tàu ngừng lại. Em cho anh tiền mua dầu đổ cho người ta.

Thầy giáo tin vậy mà mừng, thầy đi mướn tàu dầu Hòa Hảo chở thằng bé đi Long Xuyên. Chín giờ đêm, tàu bắt đầu nổ máy. Ghé ngang Bà Vệ kêu cửa nhà nhỏ em. Nó bước ra, mặt cú sụ lắc đầu:

- Anh thông cảm, chồng em với em cự lộn. Ảnh giữ chìa khóa tủ. Em mở không được. Hông thôi anh đi qua bển đi. Khi nào em quỡn em qua thăm.

Tàu vẫn chạy, may thay ông tài của tàu là bạn của ông già thầy giáo. Ông nhận mặt cháu rồi cho vợ chồng thầy thiếu tiền dầu.

Lên bệnh viện, thằng bé được đưa vào hấp điện ngay lập tức. Vợ chồng thầy giáo ngồi ngoài hành lang, khuôn mặt buồn đau não ruột. Đêm đó, vợ chồng thầy chỉ dám mua hai ổ bánh mì ngồi ăn.

Mà giờ biết làm sao khi chỉ còn ba mươi mấy ngàn trong túi. Đêm nay lỡ bệnh viện kêu đóng tiền thì lấy đâu mà trả? Giờ này biết báo với bên nội ngoại thằng bé thế nào? Hàng trăm câu hỏi đặt ra làm thầy và cô thêm rối…

Một ông cụ độ khoảng sáu bảy chục tuổi nuôi cháu nội nằm gần đó lại hỏi thăm vợ chồng thầy. Nói chuyện vài câu mới biết ông lão là người Mỹ Hội Đông. Ông cụ móc khăn tay, lật ra từng lớp, đến cuối cùng là ba tấm giấy một trăm ngàn. Ông đưa cho vợ chồng thầy một tấm:

- Chú cầm lấy đi. Cái này qua cho chú mượn. Ngày mai người nhà tới rồi trả cho qua cũng được. Để đó tối nay bác sĩ có kêu mua thuốc men gì thì mua.

Vợ chồng thầy chỉ biết cầm lấy và cảm ơn ông lão. Cuộc đời nhiều khi đưa đẩy con người ta vào một con đường tối tăm, nhưng nó không phải con đường cùng, nó luôn có lối thoát cho những con người như vợ chồng thầy giáo…

Sáng sớm, ông nội thằng bé qua bệnh viện Hành Dinh thăm thì mới hay bệnh viện đã chuyển đứa nhỏ qua Long Xuyên hồi hôm. Ông già bảy mươi tuổi này tức tốc về nhà.

Lôi bốn thùng phuy lúa ăn ra bán. Ông chạy xe đạp qua Long Xuyên. Ghé vào bệnh viện. Thầy giáo mắt ướt đẫm ôm cha khóc như một đứa trẻ.

Ông nội đứa bé nghe thầy kể chuyện hôm qua, ông tháo nón, lấy ra một trăm ngàn sang trả cho ông lão Mỹ Hội Đông. Hai ông cụ nói chuyện nhân nghĩa với nhau.

Đó là chuyện ơn, chuyện đời của những người lớn tuổi thường hay nói với nhau. Vậy mà kẻ trẻ bây giờ một lớp nào đã lãng quên. Nếu không lãng quên thì người già đâu còn ngồi đây mà ơn nghĩa?!

Thằng bé quá yếu, chắc bảy chục phần trăm không qua đêm nay. Nước biển truyền dịch đã bấy dấu trên tay chân và cả trên đầu thằng bé. Mạch máu không nổi lên.

Bác sĩ buộc lòng phải truyền nước biển trên những mạch máu ở đầu của thằng bé. Đầu thằng bé giờ đã phù lên sưng múp. Vợ chồng thầy giáo nhót lòng mà xin ôm thằng nhỏ về. Thôi thì duyên số nó với cuộc đời này vậy. Nhưng bác sĩ Đặng- người phụ trách khoa nhi lúc này- không cho xuất viện.

Ông nói: “Còn nước còn tát”. Nhưng có lẽ vợ chồng thầy giáo đã quá đau và đuối dần suốt thời gian qua. Cô thì lâm bệnh hậu sản, thầy phải về nhà lo thu xếp lúa đang bị vỡ đê. Thầy giao con lại cho đứa em gái vợ. Mắt thầy rưng rưng, thầy nói những câu nhẹ nhàng mà sao đau xót quá:

- Nếu cháu có số có phần với mình thì nó sẽ mạnh giỏi mà sống. Nhưng nếu rủi không may nó ra đi đêm nay thì em hãy ôm nó về nhà cho ông bà nội nó thấy mặt. Đừng bỏ nó ở lại nơi này. Lạnh lắm...!

Thằng bé có số còn duyên với dì nó, nó yếu nhưng không chết. Tạo hóa không bao giờ bỏ quên những con người có tình thương. Bác sĩ Đặng truyền cho nó mũi kim kể như là mũi cuối cùng ở đỉnh đầu…

Đêm đó đứa em gái cô giáo phải chạy sang khoa sản xin sữa, vắt vào trong bình cho thằng bé bú đỡ. Có lẽ duyên phận mà mũi kim cuối cùng đó đã làm cho thằng bé tỉnh. Sáng hôm sau nó dần dần có sức sống trở về…

Thằng bé nằm viện đúng ba tháng trời rồi về nhà ngoại ăn đầy… “ba tháng”. Một năm sau, thằng bé kháu khỉnh, tươi tắn hơn lúc nó mới xuất viện nhiều. Lễ thôi nôi của nó, ông ngoại vẫn cúng đầy đủ cặp vịt, chè, xôi và vẫn có mâm đồ để nó chọn.

Thằng bé liếc mắt qua các đồ vật rồi nhanh tay chụp ngay cây viết và quyển vở. Nó quẹt qua quẹt lại gì trong đó mà nó chẳng hiểu.

Chỉ có người lớn trong nhà nhìn ra dạng dạng là một chữ “Văn” nguệch ngoạc… Ngoại nó đoán lớn lên nó sẽ thành nhà văn. Có lẽ vậy mà ngoài tên trong giấy nó còn có tên là Văn. Chẳng biết thằng bé có thành nhà văn được hay không. Nếu nó thành nhà văn thật, nó sẽ viết về những tháng ngày này…

*

* *

Bé Văn ba tuổi, thầy và cô xin về Mỹ Luông dạy. Vợ chồng họ đều được giải quyết về quê một lượt. Cảnh khổ sống bằng đồng lương giáo viên vẫn đeo theo vợ chồng thầy.

Dù vậy, chưa bao giờ thầy bỏ trường bỏ lớp. Hộp sữa Beerri cho thằng bé giá mười ngàn đồng, thầy và cô mua thiếu ở chợ gần một tháng nay vẫn chưa trả đủ, người ta lên tới nhà đòi. Ông nội thằng bé bấm bụng bán mấy quyển sách xưa để trả… Cuộc sống chật vật cứ diễn ra suốt mười mấy năm trời.

Chợ Mới mấy năm sau đó, nghề mộc phát triển rầm rộ. Có một người bạn rủ thầy và cô hùn hạp đi cây ở biển Hồ nhưng vợ chồng họ không dám đi. Dành dụm mấy năm nay cũng được phân vàng, thầy cô gửi anh bạn đi mua cây về xẻ gỗ. Chuyến đi thành công như mong đợi.

Thầy giáo cưa ra thành vạt chõng để bán trước nhà. Thời đó vạt chõng cưa sẵn bán đắt như tôm tươi, chỉ vài ngày là đã bán hết. Vậy là thầy giáo lại có thêm nghề tay trái là mua cây về xẻ vạt chõng. Ba năm bán vạt chõng mà thầy và cô có thêm tiền dành dụm.

Vậy là họ chuyển qua nuôi heo, đẩy từng thùng hèm, nấu từng nồi cơm, xắt từng bó rau cho heo ăn; rồi làm mấy công ruộng dù cứ thất lên thất xuống nhưng vẫn đủ cái ăn trong gia đình…

Mười mấy năm qua, vợ chồng thầy mới khá lên một ít. Thế nhưng so với các bạn cùng thời thì thầy chỉ đứng ở mức trung bình.

Trước những ngày tháng này, người ta vẫn thường thấy hình ảnh vợ chồng thầy giáo đèo nhau trên chiếc xe đạp về Long Xuyên, thằng bé ngày nào tưởng đã chết, lên năm sáu tuổi đứng ôm cổ cha suốt mấy chục cây số đường và suốt mấy năm gian khổ ấy. Vậy mới hiểu, sau một chuỗi ngày khó khăn, nó rèn luyện con người nhiều hơn và nó cũng ban cho con người nhiều nghị lực…

Từ những năm vợ chồng thầy giáo mới về ở Mỹ Luông, người ta vẫn thường thấy họ đi qua bệnh viện Hành Dinh cho tiền những người nghèo khó.

Chẳng ai hiểu tại sao vợ chồng thầy giáo nghèo này lại làm thế? Chỉ có những người trải qua đau đớn thì họ mới cảm thấy đau trước những phận người đồng cảnh ngộ.

LÊ QUANG TRẠNG

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh