Ngày tết không thể không có câu đối, và câu đối đỏ là phong vị Tết Việt Nam. Ngày nay ở Văn Miếu (Hà Nội), tết đến nhiều người cũng đến đây xin chữ của các nhà thư pháp, xin câu đối về treo nhà.
Ngày tết không thể không có câu đối, và câu đối đỏ là phong vị Tết Việt Nam. Ngày nay ở Văn Miếu (Hà Nội), tết đến nhiều người cũng đến đây xin chữ của các nhà thư pháp, xin câu đối về treo nhà.
Người ta thích những câu đối hay, nhưng chữ cũng phải viết đẹp, để câu đối trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Các cửa hàng bán sách cũng thấy bán những câu đối tết. Và nhiều nhất là trên các tờ báo xuân, không có báo nào không in những câu đối tết, những bài viết về câu đối.
Nhưng đáng tiếc là nhiều câu đối còn dễ dãi, người viết chưa lao tâm khổ tứ, chưa biến những câu đối của mình thành một công trình nghệ thuật, mà nhiều khi chỉ như những khẩu hiệu đặt bên nhau!
Vui tết đón xuân, xin cùng đọc lại mấy câu đối của người xưa. Dù ngày nay tết đến, mọi nhà không còn cái cảnh:
“Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”.
Nhưng mọi nhà vẫn ăn tết. Và nhiều gia đình vẫn thích thú với những hàng câu đối.
Ba vạn sáu ngàn ngày, góp lại chốc đà trăm bận Tết
Một năm mười hai tháng, ước chi đủ cả bốn mùa Xuân.
(Tú Xương)
Tết đến người phong lưu hưởng tết, còn người cùng túng lại thêm lo, nhưng lo thì lo, chỉ lo sao cho qua đêm 30 tết, vì có tục đòi nợ tất niên. Chứ đến sáng mồng một, đầu năm dù sao cũng lại xuân rồi. Cụ Nguyễn Công Trứ có đôi câu đối:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Và đôi câu đối sau đây có vẻ hợp với ngày nay nhưng thật ra là của người xưa.
Đành niên qua đến cùng xương, nào tiền nhà, nào tiền học, nào tiền thuế, nào tiền ăn: nghĩ đời sống lắm phen chớ phở.
Mùi Tết nước tha hồ béo mỡ, này chén rượu, này chén chè, này chén anh, này chén chú, gặp ngày Xuân thả sức đá gà.
Thường tết đến là vui, là mừng nên câu đối thường nhắc tới sự vui mừng như:
“Tiệc Xuân vui mở, mồng một, mồng hai, mồng ba tết
Chúc tụng phát tài, mà trăm, mà nghìn, mà vạn may”.
(Khuyết danh)
Hay
“Tối ba mươi giơ cẳng đụng cây nêu, ủa Tết
Sáng mồng một lắng tai nghe tiếng pháo, à Xuân”
(cụ Nghè Tân)
Đối với phần đông dân chúng, người ta chơi câu đối theo tục lệ, riêng đối với những người chơi chữ, chơi câu đối thật là một thứ thanh tao.
Người chơi chữ gửi tâm sự vào câu đối, khóc người thân bằng câu đối, giễu cợt kẻ hèn, kẻ rởm bằng câu đối, nhưng đối với các bậc hiền tài, các anh hùng có công với Tổ quốc thì câu đối xưng tụng và đề cao. Cụ Chiêu Dương có câu đối ca tụng công đức Hưng Đạo Vương như sau:
Bày trận thế, bắt tướng Hồ, nổi tiếng anh hùng vang đất Bắc
Đem tài năng, cứu dân Việt, giữ nền xã tắc lừng trời Nam.
Cụ Huỳnh Mẫn Đạt có đôi câu đối ca tụng Nguyễn Trung Trực, nhắc tới hai trận chiến thắng ở vàm Nhật Tảo và Kiên Giang.
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Ngày nay tại đền thờ các vị anh hùng liệt sĩ, còn lưu lại rất nhiều câu đối. Chẳng hạn như câu đối của ông Phạm Duy Hổ làm để thờ tại đền Hùng Vương vào năm Giáp Dần (1914):
Non nước cao sâu, tưởng bóng Long tiên còn thoảng đó
Khói hương ngào ngạt, động lòng sơn hải biết yêu nhau.
Hay hai câu đối tại đền thờ Hưng Đạo Vương:
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.
Lược dịch: Vạn Kiếp núi cao hơi kiếm tỏa
Lục đầu nước chảy tiếng thu vang.
Truyện cũ kể rằng, có một cậu học trò nghèo, lấy được vợ con nhà quan, giàu. Hôm cưới, ông bố vợ muốn thử tài chàng rể bèn ra câu đối;
Con rể nết na xem tử tế.
Cái khó ở đây: “tế tử” nghĩa là con rể.
Chàng rể không đối được, hẹn đến ngày hôm sau. Chàng phải tìm đến vị hôn thê, nàng đã “gà” cho chồng:
Ông chồng cay đắng kể công phu.
Công phu lại chính là ông chồng: Dụng ý ở đôi câu đối trên là những chữ đồng nghĩa mà khác âm đối nhau. Lại có những câu đối, người ta dùng những chữ đồng âm khác nghĩa đối nhau:
Ruồi đậu mâm xôi đậu,
Kiến bò đĩa thịt bò.
Trước đây, nhiều thiếu nữ đã thử tài những ai muốn giương cung bắn sẻ bằng câu đối. Tương truyền vợ ba cai Vàng nhủ danh là Miên, có ra vế đối kén chồng:
Cô Miên ngủ một mình.
Câu này khó đối vì “Cô” là một mình, “Miên” là ngủ. Cô Miên lại là tên. Vế đối của Cô Miên rất lâu không ai đối được, về sau có cai Vàng làm cai Tổng mà tên tục là Thịnh đã đối.
Tổng Thịnh tóm nhiều đứa.
Tổng là tóm, Thịnh là số đông, Tổng Thịnh lại là tên. Câu đối này đã khiến cô Miên ưng thuận làm vợ ba ông cai Tổng.
Câu đối xưa nhưng đọc lại, ngẫm nghĩ vẫn thấy có những điều nhắn nhủ, những ước mơ cho chính hôm nay.
Nay tết đến xuân lại về. Những ngày cuối năm, phố chợ tấp nập người mua kẻ bán, chợt nhớ lại kỷ niệm xưa, lòng nghe man mác khi đọc lại khổ cuối bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên: “Năm nay đào lại nở/ Không thấy ông đồ xưa/ Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?”.
Vậy mà “Những người muôn năm cũ” vẫn còn đó, tuy không nhiều, quanh các đền thờ, lăng miếu, kiên nhẫn mài thỏi mực Tàu đợi khách đồng điệu.
Cho nên, ngày tết ra chợ xem các cụ đồ viết câu đối có cảm giác như được xem lại một trang đời đã cũ, chợt cảm thương ông đồ già trong thơ Vũ Đình Liên. Nên chăng, bạn và tôi cũng xin đôi câu đối về treo trong phòng khách để tỏ lòng ngưỡng vọng thú chơi xuân tao nhã đầy thi vị của người xưa?
HOÀNG VĂN
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin