"Bước ra từ cuộc chiến, tôi thấy mình dù có viết bao nhiêu, viết thế nào đi chăng nữa… cũng không đủ trả nợ cuộc đời này," Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương, người từng có mặt trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (1954) chia sẻ.
“Bước ra từ cuộc chiến, tôi thấy mình dù có viết bao nhiêu, viết thế nào đi chăng nữa… cũng không đủ trả nợ cuộc đời này,” Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương, người từng có mặt trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (1954) chia sẻ.
“Con nhím quân sự khổng lồ”
Trải qua bao khói lửa đạn bom suốt những “dặm dài kháng chiến,” đối mặt với không ít bão tố, gập ghềnh trên đường đời nhưng những ký ức về thời kỳ “nếm mật, nằm gai” ở chiến trường Điện Biên năm xưa vẫn vẹn nguyên trong tâm trí ông.
Ký ức như thước phim quay chậm mở ra trước mắt vị tướng già những câu chuyện, kỷ niệm của một thời “nếm mật, nằm gai,” “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” ở chiến trường Điện Biên.
“Ngày ấy, tôi mới 24 tuổi và không khỏi ngỡ ngàng khi tận mắt chứng kiến ‘con nhím quân sự khổng lồ’ (căn cứ Điện Biên Phủ) của thực dân Pháp; để rồi sau này, ta càng thấm thía hơn tinh thần, ý chí chiến đấu và sự hy sinh anh dũng của quân dân ta, làm nên chiến thắng gây chấn động địa cầu.
Ba tiếng ‘Điện Biên Phủ’ đã trở thành biểu tượng của sức mạnh Việt Nam,” Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương nhớ lại.
Đoàn dân công thồ hàng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, “tự lực cánh sinh,” với vũ khí thô sơ và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh,” quân dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.
Trong đó, chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947 là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến.
Tiếp đó, chiến thắng Biên giới (1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch.
Quân ta càng đánh, càng mạnh, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.
Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu Đông năm 1953, thực dân Pháp và quân can thiệp Mỹ đã cho ra đời kế hoạch Nava với mục tiêu trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.
Trước âm mưu của địch, tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch tác chiến. (Ảnh tư liệu TTXVN) |
Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ.
Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào.
Tuy là kế hoạch nằm ngoài dự kiến ban đầu của kế hoạch Nava của Pháp và Mỹ, nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Địch đã cho tập trung ở đây 16.200 quân (trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới).
Thực dân Pháp coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài không thể công phá,”nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị đã quyết định tập trung bốn đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công pháo với tổng số hơn 40.000 quân.
Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.”
Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa. Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
Tháng 12/1953, tại Chiến khu Việt Bắc (Thái Nguyên), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận có tính chất chiến lược: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh tinh nhuệ Pháp ở Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
Ký ức Điện Biên
Chiến sỹ Nguyễn Thế Xương (tên thật của nhà văn Hồ Phương) khi ấy là chính trị viên Đại đội 241, thuộc Tiểu đoàn phòng không-không quân 387 (Sư đoàn 308).
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đội 241 là đơn vị súng máy phòng không 12 ly 7 - loại súng hiện đại lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tính đến thời điểm đó.
Đơn vị của ông được giao nhiệm vụ chốt giữ, bảo vệ bến Tạ Khoa - một địa điểm quan trọng nằm trên con đường chiến lược nối giữa Yên Bái và Lai Châu, rồi cơ động lên bảo vệ các đơn vị trọng pháo của mặt trận.
Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3/1954 - ngày mở đầu chiến dịch. (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu. Trong ngày mở màn chiến dịch, quân ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200 tù binh.
Ngày 15/3/1954, sau khi quân ta giành được đồi Độc Lập, đơn vị của ông dần tiến sâu vào Mường Thanh với nhiệm vụ chặn đánh đường tiếp viện của địch. Ở phía bên kia, thực dân Pháp cố thủ bằng mọi giá bởi mất sân bay Mường Thanh là mất đường chi viện.
Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17/3, quân ta tiêu diệt nhanh gọn hai cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch. Cánh cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.
Tiếp đó, quân ta tấn công đợt 2 vào năm cao điểm phía Đông then chốt phòng ngự của địch. Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm.
Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào.
Bộ đội ta đào giao thông hào dày đặc xung quanh cứ điểm Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
“Khó khăn chồng chất khó khăn! Chiến sự ngày càng ác liệt. Chúng tôi đối mặt với địch theo tinh thần: tất cả những gì có trong tay (kìm, gậy gộc, cuốc xẻng…) đều là vũ khí chiến đấu.
Trong khi đó, địch cho một tiểu đoàn có pháo binh, xe tăng tấn công đơn vị phòng không xung kích; buộc ta phải hạ nòng 12 ly 7 để bắn hạ xe tăng địch,” nhà văn Hồ Phương nhớ lại.
Từ ngày 1 đến 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, quân ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng.
Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!
Các chiến sỹ quân y luôn bám sát trận địa. (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.
Chiến thắng này đã góp phần quan trọng đưa đến việc ký Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Thiếu tướng Hồ Phương nhớ lại, trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, việc cứu chữa thương binh, việc chôn cất đồng đội phải diễn ra lặng lẽ, nhanh chóng vào ban đêm.
Ban ngày, tiếng súng đạn, tiếng máy bay gầm rú bao phủ khắp không gian. Đêm xuống, tiếng rên rỉ, tiếng khóc than và cả tiếng gào rú vì đau đớn của chiến sỹ bị thương, phải điều trị trong tình trạng thiếu thốn thuốc men… khiến những người xung quanh không khỏi nhói lòng.
“Đôi lúc, chứng kiến cảnh đồng đội phải tiến hành phẫu thuật cắt bỏ tay, chân khi không có đủ thuốc gây mê, tôi thấy như có luồng điện chạy dọc sống lưng. Cảm giác tê dại!” Nói rồi, giọng ông trùng xuống. Một khoảng lặng kéo dài.
Bước ra từ cuộc chiến, ông đã đưa những chất liệu ấy vào các tác phẩm của mình: “Vài mẩu chuyện về Điện Biên Phủ” (1956), “Lá cờ chuẩn đỏ thắm” (1957)…
“Thời gian càng lùi xa, tôi càng thấy mình còn nợ cuộc đời nhiều quá; nhất là khi tôi là người may mắn trở về, còn biết bao đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại nơi núi cao, vực sâu, rừng thẳm, máu thịt các anh đã hòa vào đất trời, sông núi Điện Biên,” vị Tướng già chia sẻ.
Tướng De Castries (đi đầu) cùng toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra đầu hàng. (Ảnh tư liệu: TTXVN) |
“Món nợ” ấy là những trang viết về cuộc chiến với góc nhìn đa diện hơn, về những người chiến sỹ cách mạng một cách chân thực hơn, đời hơn, những số phận cụ thể với đầy đủ những hỉ-nộ-ái-ố của con người.
Nói khác đi, đó phải là những trang viết sát với thực tế, gần với những gì vốn có hơn. Ví dụ, bên cạnh lòng quyết tâm, ý chí chiến đấu thì người chiến sỹ cũng có những phút yếu lòng hay những khoảnh khắc mơ màng, xao xuyến…
Ông bảo, khi mới bắt đầu cầm bút, các tác phẩm của ông thường viết theo chủ nghĩa anh hùng ca. Ở đó, hình tượng người chiến sỹ cách được xây dựng theo hướng tập trung tô đậm những phẩm chất tốt đẹp và làm mờ nhòe đi những góc khuất, khoảng lặng suy tư và những tâm sự đời tư, xúc cảm cá nhân thường./.
Theo TTXVN
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin