Phát triển logistics cho nông sản

07:05, 04/03/2025

Đến nay, Việt Nam đã trở thành nước sản xuất và xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản lớn với nhiều mặt hàng xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới, trong đó có sự đóng góp rất quan trọng từ ngành và các doanh nghiệp (DN) logistics nông sản (NS). Tuy nhiên, ngành logistics của cả nước (trong đó có tỉnh Vĩnh Long) hiện vẫn còn nhiều hạn chế, cần có các giải pháp dài hạn để thúc đẩy ngành này phát triển trong thời gian tới.

ĐBSCL có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Ảnh: TRẦN NHÀNH
ĐBSCL có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Ảnh: TRẦN NHÀNH


Thành tựu và hạn chế của ngành logistics


Theo báo cáo của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (thuộc Bộ Nông nghiệp-PTNT) vào tháng 1/2025, trong 5 năm gần đây, ngành logistics của Việt Nam có bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt từ 14-16%. Chất lượng dịch vụ, hạ tầng logistics được nâng cao, số lượng DN logistics phát triển nhanh.

Chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) bình quân của Việt Nam đã có những tiến bộ tích cực, từ hạng 52 năm 2007 lên hạng 39/160 quốc gia năm 2018. Trong bảng xếp hạng LPI gần đây nhất năm 2023, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Việt Nam đứng vị trí thứ 43, tụt 4 hạng so với thứ 39 của năm 2018, nhưng về điểm LPI tăng lên mức 3,3 điểm so với mức 3,27 điểm năm 2018. Việt Nam thuộc top 5 ASEAN sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và cùng vị trí với Philippines. Trong đó, hệ thống logistics phục vụ sản xuất, kinh doanh NS đang dần được cải thiện đáng kể.


Theo báo cáo tổng hợp Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (được Chính phủ phê duyệt năm 2023), khu vực ĐBSCL có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, đóng góp tới 40% giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước, bao gồm 90% sản lượng gạo, 65% thủy sản và 70% sản lượng trái cây xuất khẩu.

Đối với tỉnh Vĩnh Long, dịch vụ logistics và vận tải ở giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 2,9 %/năm; giai đoạn 2011-2020 đạt 4,6 %/năm. Năm 2020, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1.795 tỷ đồng, tăng gấp 1,6 lần năm 2010; tăng trưởng khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 2,7 %/năm ở giai đoạn 2011-2020 đạt 2,7 %/năm (vùng ĐBSCL là 5,6 %/năm).


Tuy nhiên, logistics NS của nước ta chưa phát triển đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với các vùng nguyên liệu NS chủ lực. Một số vùng sản xuất tập trung, các đầu mối giao thương cho các vùng và cho cả nước thiếu các dịch vụ logistics hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, lưu trữ, bảo quản kho lạnh, sơ chế, chế biến sâu, vận tải quốc tế hay các dịch vụ hỗ trợ xuất nhập khẩu. 


Đặc biệt, các DN logistics trong lĩnh vực này đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm sự thiếu đồng bộ trong kết cấu hạ tầng giao thông, chi phí dịch vụ cao và khả năng tiếp cận nguồn vốn hạn chế. Đặc biệt, việc thiếu dữ liệu tập trung cũng như sự thay đổi liên tục của các quy định kiểm dịch tại thị trường quốc tế đã làm gia tăng rủi ro cho các DN. 


Hiện phần lớn các DN logistics của Việt Nam nói chung và cho nông nghiệp nói riêng có quy mô vừa và nhỏ (90% DN đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng), hạn chế về vốn và công nghệ cũng như năng lực hoạt động ở thị trường quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa DN dịch vụ logistics với DN xuất nhập khẩu. Bên cạnh, các DN phân tán về loại hình dịch vụ, các DN logistics hoạt động ở nhiều mảng dịch vụ khác nhau chủ yếu làm đại lý hoặc đảm nhận từng công đoạn trong chuỗi dịch vụ logistics cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế. 


Thêm vào đó, kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cũng như trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo dịch vụ logistics NS hoạt động hiệu quả làm chi phí, tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch cao. Hiện chi phí logistics chiếm 12% giá thành sản phẩm ngành thủy sản, chiếm 23% giá thành đồ gỗ, 29% giá thành rau quả và chiếm 30% giá thành gạo... 


Các giải pháp phát triển


Theo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, để phát triển bền vững ngành logistics NS, cần xây dựng chiến lược phát triển đồng bộ xuyên suốt các chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp nhằm hình thành các khu vực tập kết NS, thực hiện công nghệ bảo quản NS, phân loại, sơ chế, chế biến sâu NS; đóng gói, bao bì, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc cho NS; cung ứng xuất, nhập khẩu NS; thực hiện công tác kiểm dịch, kiểm định và thủ tục hải quan; cung cấp dịch vụ thương mại, xúc tiến đầu tư thương mại, chuyển giao công nghệ…

Cần đẩy nhanh khâu vận chuyển và thu hút đầu tư vào phát triển logistics nông sản nhằm hỗ trợ tốt cho tiêu thụ, xuất khẩu nông sản. Ảnh: TRẦN NHÀNH
Cần đẩy nhanh khâu vận chuyển và thu hút đầu tư vào phát triển logistics nông sản nhằm hỗ trợ tốt cho tiêu thụ, xuất khẩu nông sản. Ảnh: TRẦN NHÀNH


Trong đó ưu tiên xây dựng và phát triển các trung tâm logistics các cấp tại các vùng sản xuất tập trung, tại vùng kinh tế trọng điểm, tại các cửa khẩu với các nước xung quanh (như Trung Quốc, Lào, Campuchia) và tại các cảng biển lớn, đây là nơi tập kết hàng hóa xuất, nhập khẩu, đảm bảo hạ tầng giao thông, hạ tầng chế biến bảo quản và xử lý môi trường theo quy định.


Các trung tâm logistics NS có sự liên kết chặt chẽ liên thông với nhau để trao đổi hàng hóa NS thông qua hệ thống dịch vụ vận tải, kết nối điện tử do DN, thương nhân, HTX đảm nhiệm. Thương nhân là lực lượng kết nối, thu mua vận chuyển NS từ nơi sản xuất đến các trung tâm và nhà máy chế biến. 


Song song đó, cần nâng cấp hoàn thiện cơ sở hạ tầng kết nối với các trung tâm logistics NS, bao gồm: hệ thống đường giao thông, bãi trung chuyển, hệ thống bốc dỡ phương tiện vận chuyển, hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số... và tổ chức lại sản xuất, hệ thống thương lái thành các DN, HTX cung cấp hàng hóa và dịch vụ đảm bảo kết nối giữa các trung tâm logistics NS.


Ngoài ra, cần xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và kết nối điện tử trong hệ thống logistics NS. Thực hiện chuyển đổi số, số hóa các công đoạn quản lý hoạt động tại các trung tâm logistics NS đồng bộ. Xây dựng nền tảng logistics NS điện tử, hải quan số, đăng ký giấy phép trực tuyến. Thúc đẩy hình thành các chuỗi logistics NS xanh kết nối giữa các vùng miền trong nước, khu vực và quốc tế dựa trên hệ thống vận tải đa phương thức; đẩy mạnh chuyển đổi số trong mạng lưới trung tâm logistics NS, trong đó bao gồm truy xuất nguồn gốc.


Nhưng trước tiên, Nhà nước cần cải thiện các cơ chế, chính sách thu hút và hỗ trợ các DN sản xuất, kinh doanh, dịch vụ logistics trong nông nghiệp (bao gồm các cơ chế, chính sách về đất đai; về thuế, nguồn vốn, lãi suất…). Đồng thời cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế để tận dụng nguồn lực và kinh nghiệm toàn cầu.


Đối với Vĩnh Long, bên cạnh các giải pháp nêu trên, Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đưa ra giải pháp phát triển thương mại, logistics trong thời gian tới là tập trung phát triển hạ tầng và DN dịch vụ thương mại, vận tải, logistics. 


Về hạ tầng logistics, tỉnh sẽ nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa hạ tầng logistics, bao gồm cả hệ thống nhà kho và chuỗi kho lạnh, tập trung thu hút đầu tư vào chuỗi kho lạnh; mở rộng các dịch vụ logistics, cung cấp các dịch vụ logistics trọn gói, tận dụng lợi thế, trong đó thu hút đầu tư phát triển các trung tâm logistics tại TX Bình Minh, huyện Mang Thít, Tam Bình... Theo quy hoạch, đến năm 2030, sẽ xây dựng trung tâm logistics hạng I tại TX Bình Minh (diện tích khoảng 300ha), trung tâm này sẽ đóng vai trò là một đầu mối hàng hóa, cung cấp tất cả các dịch vụ cần thiết cho các DN muốn xuất khẩu. 


Về DN dịch vụ thương mại, vận tải, logistics, tỉnh sẽ hoàn thiện các chính sách khuyến khích doanh nhân địa phương đầu tư vào các dịch vụ trong phân đoạn khác nhau của chuỗi giá trị dịch vụ logistics. Thúc đẩy việc thành lập hiệp hội logistics của tỉnh Vĩnh Long để kết nối các DN trong chuỗi ngành logistics, cung cấp dịch vụ tổng thể thông qua tăng cường liên kết giữa các DN, hỗ trợ các DN mới thành lập, tạo môi trường để các DN học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau.  Đồng thời hỗ trợ hình thành DN thương mại, xuất nhập khẩu có quy mô lớn, làm đầu mối xuất, nhập khẩu của tỉnh để trực tiếp xuất, nhập khẩu hoặc nhận ủy thác cho các DN trong và ngoài nước...

Hệ thống logistics phục vụ sản xuất, kinh doanh nông sản đang dần được cải thiện. Ảnh: DƯƠNG THU
Hệ thống logistics phục vụ sản xuất, kinh doanh nông sản đang dần được cải thiện. Ảnh: DƯƠNG THU


Phấn đấu phát triển dịch vụ thương mại, logistics của tỉnh là bệ đỡ, điểm tựa vững chắc cho sản xuất và dịch vụ trong tỉnh ngày càng đổi mới, phát triển; tạo tiền đề vững chắc để mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu và từng bước đưa Vĩnh Long trở thành trung tâm thương mại, logistics của vùng ĐBSCL vào năm 2030… Và tăng trưởng giá trị tăng thêm thương mại, logistics phấn đấu đạt tốc độ tăng bình quân 10,5 %/năm giai đoạn 2026-2030 và đóng góp khoảng 25% vào GRDP của tỉnh.


MỸ TRUNG

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh