Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và chúc Tết gia đình ông Nguyễn Văn Thức, nhà tư sản dân tộc, ngày 24/1/1963 (Đêm giao thừa Tết Nguyên đán Quý Mão). Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh |
Tết năm Quý Tỵ (1953), trước những khó khăn, gian khổ chồng chất của cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, nhưng chỉ còn một năm nữa là hào quang Điện Biên Phủ, là “Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”, trong nước và ngoài nước có nhiều tin vui thắng lợi, Bác Hồ đã cổ vũ động viên toàn quân và toàn dân ta:
… Tết Quý Tỵ xuân năm mới,
Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi,
Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi,
Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới
Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi,
Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng.
Và Bác luôn gieo vào lòng mọi người niềm tin thắng lợi của ngày mai. Đó là biểu hiện của tinh thần lạc quan cách mạng của người cộng sản. Khi cách mạng gặp khó khăn hay khi gần thắng lợi, Bác luôn thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác đã nói:
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi. Thống nhất độc lập, nhất định thành công. Tư tưởng đó xuyên suốt trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Và hai bài thơ chúc Tết Ất Tỵ (1965) được kết thúc bằng những lời mộc mạc, chân thật gieo vào lòng người đọc niềm tin tưởng vào tương lai:
Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi!
Hòa bình thống nhất ắt thành công!
Thật không ai ngờ chỉ 4 năm sau, vào giao thừa Mậu Thân chuyển sang Kỷ Dậu (2/1969), đồng bào chiến sĩ cả nước quây quần bên nhau chăm chú lắng nghe bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác Hồ truyền qua làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt Nam:
Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay, tiền tuyến chắc càng thắng to!
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào
Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!
Năm ấy, Bác Hồ đã 79 tuổi, nhưng lời thơ của Bác vẫn thể hiện một ý chí sắt thép, một nghị lực phi thường. Lời thơ xuân như một hịch truyền cổ vũ cuộc đấu tranh cách mạng ngoan cường mà Hồ Chí Minh là ngọn cờ, là hồn thiêng sông núi.
Trong bài thơ chúc Tết cuối cùng, Bác dự đoán Mỹ cút, ngụy nhào và đã là một dự đoán chính xác. Người báo trước không những chúng sụp đổ, mà cả cái hình thức sụp đổ khác nhau khá độc đáo của chúng.
Bài thơ chúc Tết Kỷ Dậu (1969) mang khí thế của toàn quân ra trận, lời thơ thật là tha thiết, thật là mãnh liệt và tràn đầy tin tưởng. Đồng bào miền Nam nghe tiếng Bác qua Đài Tiếng nói Việt Nam mà rưng rưng nước mắt và mong sao chóng đến ngày thống nhất đất nước, được rước Bác vào thăm, nhưng ước mơ đó không thành. Ngày 2/9/1969, Bác đã đi vào “cõi vĩnh hằng” để lại muôn vàn tình thương yêu cho cả nước và thế giới.
Và từ đó, hàng năm đến giao thừa, ta không còn cái hạnh phúc được nghe giọng ấm cúng của Bác đọc thơ xuân mới nữa. Nhưng âm vang hào hùng và sâu lắng trong những bài thơ xuân của Bác vẫn còn rung động trong lòng chúng ta mãnh liệt. Bác Hồ đã sống mãi cùng với thơ xuân của Người. Và cứ mỗi khi Xuân về, Tết đến, cả nước bồi hồi nhớ Bác không nguôi.
Nguyễn Tấn
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin