Theo Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, thời gian qua, sức khỏe đất tại nhiều nơi bị suy giảm, đất bị thoái hóa, xói mòn, nhiễm phèn, mặn. Trong đó, tình trạng giảm hàm lượng hữu cơ, mất cân đối dinh dưỡng đang trở thành thách thức lớn của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL- nơi được xem là vùng trọng điểm lúa gạo và cây ăn trái của cả nước. Do đó, việc gìn giữ, phục hồi, nâng cao sức khỏe đất đang là yêu cầu cấp thiết.
![]() |
| Nông dân cần nâng cao nhận thức phục hồi, nâng cao sức khỏe đất trồng trong canh tác. |
Suy giảm độ phì nhiêu đất
Theo Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, ở ĐBSCL, trong tổng số hơn 1,9 triệu hecta đất trồng lúa được khảo sát, có hơn 890.000ha có độ phì nhiêu trung bình (chiếm 47%), hơn 600.000ha phì nhiêu ở mức khá (32%), hơn 360.000ha có độ phì nhiêu cao (hơn 19%), còn lại hơn 33.000ha độ phì nhiêu thấp.
TS Nguyễn Quang Hải- Phó Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hóa cho biết, vùng ĐBSCL có mức độ thoái hóa thấp hơn mặt bằng chung của cả nước, đối với đất trồng lúa có 3 dạng thoái hóa chính gồm suy giảm độ phì, mặn hóa và phèn hóa. Theo các nghiên cứu, chất lượng đất trồng lúa trong những năm qua diễn biến đáng lo ngại gồm độ pH, hàm lượng kali, canxi giảm; độ mặn và độ chua tăng lên.
Nguyên nhân được xác định là biến đổi khí hậu, bão lũ, xâm nhập mặn và hạn hán. Cùng với đó là sử dụng giống năng suất cao, khai thác quá mức dinh dưỡng từ đất; lạm dụng phân bón và thuốc BVTV. Bên cạnh đó, suy giảm phù sa do các đập trên thượng nguồn sông Mekong.
PGS.TS Trần Văn Dũng- Trường Nông nghiệp, ĐH Cần Thơ thông tin, vùng ĐBSCL có hơn 4 triệu hecta đất với 4 nhóm đất chủ đạo gồm đất phù sa, đất phèn, đất mặn và nhóm đất khác như đất xám bạc màu, đất than bùn.
Hiện nay, suy giảm độ phì nhiêu đất đang trở thành thách thức lớn của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL, nơi được xem là vùng trọng điểm lúa gạo và cây ăn trái của cả nước.
Nguyên nhân là do quá trình thâm canh kéo dài, cùng với biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, hiện tượng xâm nhập mặn sâu, hạn hán, sụt lún.
Tại tỉnh, theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, thời gian qua việc sử dụng quá nhiều thuốc BVTV, phân bón hóa học, thâm canh trong sản xuất dẫn đến tiêu diệt hệ sinh vật có ích trong đất, giảm độ tơi xốp và khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây trồng, từ đó làm ảnh hưởng “sức khỏe” đất, cây trồng, thoái hóa đất nông nghiệp.
Do đó, phát triển sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ trên nền sử dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp, kể cả trước mắt và lâu dài để tiến đến nền nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải và tạo ra nông sản an toàn, có giá trị gia tăng cao.
Cải thiện sức khỏe đất
Tài nguyên đất là nền tảng của sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Trong bối cảnh thâm canh kéo dài và biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, đất đai đang suy giảm độ phì một cách đáng lo ngại.
Việc hiểu rõ đặc điểm từng nhóm đất, đánh giá đúng thực trạng suy thoái và áp dụng các biện pháp quản lý hợp lý- từ việc tăng cường hữu cơ, cân đối dinh dưỡng, luân canh đến phát triển mô hình canh tác thông minh- sẽ góp phần phục hồi đất, giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế và hướng đến một nền nông nghiệp bền vững.
Theo các chuyên gia, để cải thiện, quản lý và nâng cao độ phì nhiêu đất bền vững tại ĐBSCL cần thực hiện đồng bộ và áp dụng rộng rãi các nhóm giải pháp.
PGS.TS Trần Văn Dũng cho rằng, cần tăng cường phân tích đất và lá ở quy mô nông hộ nhằm bón phân hợp lý; khuyến khích sử dụng phân hữu cơ và các vật liệu cải tạo đất; giảm thâm canh lúa 3 vụ và mở rộng mô hình luân canh; phát triển các mô hình kinh tế phù hợp theo từng nhóm đất như: tôm lúa cho vùng mặn, khóm mía cho vùng phèn và các mô hình trái cây, lúa màu cho vùng phù sa... Quản lý độ phì nhiêu đất không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà còn là định hướng chiến lược lâu dài nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định của nông nghiệp ĐBSCL trong tương lai.
TS Nguyễn Quang Hải cho rằng, các giải pháp tiềm năng để quản lý và cải thiện sức khỏe đất, bao gồm xây dựng cơ sở dữ liệu, mạng lưới quan trắc, nghiên cứu các nguyên tố trung và vi lượng, phát triển hệ thống chẩn đoán tính chất đất.
“Trước hết, phải xây dựng cơ sở dữ liệu chất lượng đất, xây dựng thang đánh giá sức khỏe đất lúa. Chúng tôi cũng đang đề nghị Cục Trồng trọt và BVTV phối hợp để làm sao xây dựng thang sức khỏe đất không những cho lúa mà cho các cây trồng chủ lực khác”- TS Nguyễn Quang Hải nói.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp tỉnh cũng sẽ khuyến khích phát triển, sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ quy mô nông hộ trên cơ sở tận dụng các nguồn phụ phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản, rác thải sinh hoạt. Tăng cường tuyên truyền, cung cấp thông tin về sử dụng phân bón hữu cơ tác động đến sức khỏe đất, an toàn cho người sản xuất và sản phẩm. Thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ tiên tiến, thân thiện với môi trường; xây dựng các quy trình bón phân cho các cây trồng chủ lực tiềm năng.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc và nhiều đánh giá quốc tế, các dạng suy thoái đất phổ biến ở vùng nhiệt đới như xói mòn, nghèo dinh dưỡng, mặn hóa, phèn hóa và suy thoái sinh học đều thể hiện rõ ở ĐBSCL. Trong hệ thống thâm canh 3 vụ lúa trên đất phù sa, các biểu hiện suy thoái đất diễn ra rõ rệt. Nghiên cứu dài hạn từ năm 2003-2024 cho thấy, năng suất lúa của vùng giảm trung bình 16,6% chỉ sau 8 năm. Tình trạng suy thoái cũng diễn ra mạnh trên đất vườn cây ăn trái lâu năm.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin