Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ I, nhiệm kỳ 2020-2030, đại diện UBND tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Công Thương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài chính, Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch trình bày các tham luận: “Nhiệm vụ, giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 2 con số thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững”; “Nhiệm vụ, giải pháp đột phá phát triển kinh tế biển và năng lượng sạch - động lực cho kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long”; “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh Vĩnh Long”; “Nhiệm vụ và giải pháp đột phá phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu kết nối vùng và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững”; “Đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, hình thành động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế của tỉnh”; “Nhiệm vụ, giải pháp đột phá khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long”.
Vĩnh Long online xin trân trọng giới thiệu toàn văn các tham luận này.
* Nhiệm vụ, giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 2 con số thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
![]() |
Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh- Đặng Văn Chính trình bày tham luận. |
Nhiệm vụ, giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 2 con số thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững
Trong bối cảnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang tái cấu trúc nền kinh tế để thích ứng biến đổi khí hậu, hội nhập sâu rộng. Tỉnh Vĩnh Long với vị trí trung tâm vùng ĐBSCL đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng và hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao hơn, bền vững hơn và đạt hai con số trong thời gian tới.
Ngày 1/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Qua gần 10 năm triển khai mô hình tăng trưởng kinh tế, tỉnh Vĩnh Long có những đổi mới tích cực, tăng trưởng kinh tế dựa trên tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ; từng bước hình thành một số ngành kinh tế mới có dư địa phát triển tốt, phù hợp với một nền kinh tế hiện đại và làm động lực cho tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu. Kinh tế của tỉnh Vĩnh Long phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tuy nhiên lại chịu tác động sâu sắc bởi biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Quy mô nền kinh tế năm 2025 ước đạt 288.858 tỷ đồng, tăng 2,6 lần so với năm 2015; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP theo giá so sánh 2010) giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 6,76%/năm, giai đoạn 2021 - 2025 tăng bình quân 5,58%/năm; tỷ trọng kinh tế phi nông nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 1,52 điểm %/năm; giai đoạn 2021 - 2025 tăng 0,54 điểm %/năm.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đúng hướng, ước đến cuối năm 2025 tỷ trọng khu vực nông - lâm, thủy sản là 32,02%, khu vực công nghiệp - xây dựng là 27,35%, khu vực dịch vụ là 36,11%. Kết quả cơ cấu một số ngành, lĩnh vực cụ thể như sau:
- Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng gắn với xây dựng nông thôn mới có hiệu quả; thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ, hướng tới nền nông nghiệp sạch, công nghệ cao: Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, kết quả bước đầu cho thấy ngành nông nghiệp liên tục phát triển và duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ rệt. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng tích cực, đóng góp vào tăng trưởng GRDP ngành giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 2,62%/năm, giai đoạn 2021 - 2025 ước tăng bình quân 4,15%/năm. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích tiếp tục tăng. Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả quan trọng gắn với đô thị hóa, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, bền vững. Tỉnh Trà Vinh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng tỉnh nông thôn mới; tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Bến Tre hoàn thành các chỉ tiêu về nông thôn mới, đô thị văn minh.
- Cơ cấu lại ngành công nghiệp: Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên giai đoạn 2021 - 2025 tốc độ tăng trưởng bình quân khu vực dịch vụ giảm đáng kể so với giai đoạn trước, cụ thể: giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 16,77%/năm, giai đoạn 2021 - 2025 ước tăng bình quân 6,4%/năm. Ngành công nghiệp của tỉnh có 04 nhóm ngành chính: Công nghiệp khai khoáng; công nghiệp chế biến, chế tạo; công nghiệp sản xuất và phân phối điện; công nghiệp cung cấp nước, hoạt động xử lý rác thải, nước thải. Tỉnh Vĩnh Long triển khai Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương với định hướng cơ cấu lại ngành công nghiệp nhằm nâng cao năng suất, giá trị gia tăng, tập trung nguồn lực cho ngành, lĩnh vực ưu tiên và địa bàn trọng điểm; khai thác hiệu quả thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, gắn với hội nhập quốc tế. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong GRDP, nâng cao khả năng chống chịu và giá trị gia tăng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
- Cơ cấu ngành dịch vụ: Các ngành dịch vụ phát triển khá nhanh và đóng góp giá trị cao; tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,66%, giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 6,8%; ước đến cuối năm 2025 chiếm tỷ trọng 36,11%/GRDP của tỉnh (là khu vực chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 03 khu vực kinh tế); dịch vụ vận tải phát triển mạnh, vận tải liên tỉnh được mở rộng, chất lượng được nâng lên; dịch vụ viễn thông, mạng di động 3G, 4G phủ sóng toàn tỉnh; dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học công nghệ... phát triển về cả số lượng và chất lượng.
Hoạt động du lịch có nhiều chuyển biến rõ nét; các sản phẩm du lịch có lợi thế, kết nối các tỉnh thành hoàn thiện và phát triển các tuyến du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước.
- Cơ cấu lại các khu vực kinh tế: Đến nay, tỉnh đã thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đối với 03 đơn vị. Thực hiện sắp xếp cơ cấu lại ĐVSNCL theo hướng tinh gọn, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động. Sau khi hợp nhất tỉnh, giảm được 136 ĐVSNCL so với trước khi sắp xếp tỉnh, giảm được 526 ĐVSNCL, đạt 27,07%. Năm 2015 toàn tỉnh có 3.807 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, đến năm 2025 tăng lên 11.800 doanh nghiệp. Như vậy, trong 10 năm, số lượng doanh nghiệp tăng thêm 7.993 doanh nghiệp, tăng bình quân 11,98%/năm, tương ứng khoảng 799 doanh nghiệp mỗi năm.
Tỉnh đã chú trọng thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực mạnh, từng bước hướng đến xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân với công nghệ hiện đại, quản trị tiên tiến, có khả năng đóng vai trò nòng cốt, mũi nhọn trong phát triển kinh tế của tỉnh. Tỉnh đã quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện để đội ngũ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước phát triển bền vững, gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn nhằm hình thành chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất - kinh doanh liên kết, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước khẳng định vị thế trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của doanh nghiệp nước ngoài.
Kính thưa Đại hội!
Bên cạnh những kết quả đạt được tích cực nêu trên, nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn một số tồn tại, hạn chế: Mô hình tăng trưởng chưa thật sự ổn định và bền vững, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động bên ngoài, khó kiểm soát như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thị trường tiêu thụ và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chuỗi giá trị, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo diễn ra tương đối chậm. Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh nhìn chung còn thấp. Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, năng lực quản trị và tài chính yếu, khả năng tích lũy vốn thấp, dễ bị ảnh hưởng trước biến động thị trường.
Diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng của đại dịch COVID-19, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, cạnh tranh thương mại, gián đoạn chuỗi cung ứng đã tác động tiêu cực đến quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Áp lực từ chính sách thuế quốc tế - đặc biệt từ thị trường Hoa Kỳ; doanh nghiệp phần lớn quy mô nhỏ, còn hạn chế về công nghệ, thiếu chứng nhận kỹ thuật quốc tế, dẫn đến khó mở rộng đơn hàng và thị trường mới.
Kính thưa Đại hội!
Từ thực tiễn phát triển và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn mới, có thể thấy rằng để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 02 con số thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, Vĩnh Long cần bước đi mạnh mẽ và đột phá hơn trong đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Điều này không chỉ dừng lại ở việc khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có, mà quan trọng hơn là phải khơi thông, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, đến khu vực tư nhân và nguồn lực xã hội.
Để đạt được các mục tiêu, trong thời gian tới tỉnh cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, linh hoạt, nhạy bén cụ thể hóa kịp thời và tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ưu tiên lập, điều chỉnh và triển khai Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với địa giới hành chính mới; tỉnh Vĩnh Long mới với lợi thế “03 mặt giáp sông, 01 mặt giáp biển”, với tiềm năng đa dạng, phong phú, hội tụ đầy đủ các hệ sinh thái mặn, ngọt, lợ để phát triển dừa, cây ăn trái, lúa nước, hoa kiểng, thủy hải sản…; Vĩnh Long sẽ tận dụng, khai thác hiệu quả thế mạnh này, tập trung huy động mọi nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, tạo động lực cho tỉnh phát triển nhanh, hài hòa, bền vững trong giai đoạn mới. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn dựa trên vị trí địa lý, hệ sinh thái, phù hợp với quy luật tự nhiên, thổ nhưỡng, đa dạng sinh học, văn hóa, con người Vĩnh Long.
Thứ hai, cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, sinh thái, thích ứng biến đổi khí hậu. Tổ chức lại sản xuất phù hợp quy hoạch tỉnh, lợi thế địa phương, sinh thái vùng và nhu cầu thị trường. Phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao gắn với du lịch nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, phát triển bền vững; phát triển các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, gắn với lợi thế từng địa phương và thị trường tiêu thụ; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp tuần hoàn. Phát triển chuỗi giá trị và công nghiệp chế biến: Gắn kết chặt chẽ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, hình thành chuỗi giá trị bền vững; đầu tư mạnh công nghiệp chế biến sâu, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị; xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, tiêu chuẩn chất lượng theo thị trường trong và ngoài nước. Tiếp tục đưa chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, toàn diện và bền vững, gắn với phát triển kinh tế nông thôn, ổn định xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, tập trung cơ cấu ngành công nghiệp; tiếp tục thu hút đầu tư thứ cấp với các Khu công nghiệp Hòa Phú, Bình Minh; đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các Khu công nghiệp: Cổ Chiên, Cầu Quan, Ngũ Lạc và Phú Thuận. Hoàn thành việc điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Định An, Khu công nghiệp Cầu Quan, đồ án quy hoạch phân khu xây dựng Khu công nghiệp An Nhơn. Hoàn thành xây dựng khu tái định cư phục vụ cho Khu công nghiệp Đông Bình và Gilimex Bình Tân.
Chủ động nắm bắt các khó khăn của doanh nghiệp, nhất là các vướng mắc về cơ chế, chính sách để kịp thời đề xuất giải pháp hỗ trợ phù hợp. Theo dõi, hỗ trợ đầu tư hoàn thành đưa vào vận hành các dự án điện gió, nhà máy điện sinh khối và nhà máy sản xuất hydro xanh. Tập trung thực hiện Quy hoạch điện VIII, tạo tiền đề trở thành Trung tâm xuất khẩu năng lượng tái tạo.
Thứ tư, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, phát triển thương mại điện tử gắn với quản lý, xây dựng hệ sinh thái thương mại điện tử toàn diện, hiện đại. Cơ cấu lại ngành dịch vụ theo hướng hiện đại, chất lượng cao, có giá trị gia tăng, dựa trên nền tảng công nghệ số và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế như logistics, cảng sông, cảng biển, dịch vụ việc làm, môi trường, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao. Đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực dịch vụ; tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ.
Thứ năm, tập trung phát triển kinh tế biển thành trụ cột chiến lược của vùng. Trọng tâm là phát triển cảng biển, logistics ven biển, điện gió ven bờ, ngoài khơi, du lịch biển; đầu tư các khu lấn biển, khu kinh tế biển gắn với đô thị và du lịch; phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản theo chuỗi giá trị bền vững. Đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất trên biển theo mô hình hợp tác, liên kết chuỗi; đầu tư dịch vụ hậu cần nghề cá; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển du lịch biển, xã hội hóa đầu tư tôn tạo danh lam thắng cảnh, bảo tồn lễ hội, làng nghề, phát triển khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm du lịch ven biển.
Thứ sáu, tập trung huy động mọi nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, trong đó ưu tiên xây dựng hệ thống giao thông chiến lược, các trục giao thông huyết mạch, hạ tầng cảng biển, cảng sông, logistics, gắn với hạ tầng số, hạ tầng công nghệ thông tin, đảm bảo kết nối liên vùng và nội tỉnh, liên thông hiệu quả với các trung tâm kinh tế lớn của vùng ĐBSCL, vùng Đông Nam Bộ và Cửa khẩu quốc tế. Tập trung phát triển hạ tầng khu cụm công nghiệp, khu kinh tế, từng bước hình thành các vùng động lực kinh tế biển, hướng đến hình thành trung tâm sản xuất năng lượng tái tạo của cả nước.
Thứ bảy, huy động và khai thác mạnh mẽ các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để đầu tư phát triển. Tăng cường các biện pháp để quản lý và bồi dưỡng nguồn thu, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy định của pháp luật. Bố trí chi ngân sách ưu tiên cho những công trình trọng điểm, các nhiệm vụ quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, thực hiện các chế độ chính sách của Trung ương và địa phương.
Thứ tám, phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung phát triển sản phẩm du lịch dựa trên tính đặc thù, đặc sản nông nghiệp địa phương, truyền thống văn hóa lịch sử, kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển. Phát triển các cụm du lịch quy mô lớn, độc đáo, thích ứng biến đổi khí hậu và hướng tới du lịch xanh, bền vững. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số: tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị, kinh doanh, quảng bá xúc tiến du lịch. Xây dựng bản đồ số du lịch, nghiên cứu hợp nhất cổng du lịch thông minh, và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh để nâng cao trải nghiệm cho du khách. Mời gọi đầu tư vào các dự án du lịch trọng điểm; tiếp tục phát huy hiệu quả việc liên kết và hợp tác phát triển du lịch với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành ĐBSCL. Mở rộng liên kết với các tỉnh, thành phố khác trên cả nước và quốc tế để mở rộng tour tuyến và tạo sản phẩm du lịch mới.
Thứ chín, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp; đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyển đổi số trong doanh nghiệp, khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo. Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng hiệu quả đất đai, vốn, công nghệ và cơ hội thị trường. Khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư; hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, tái cơ cấu sản phẩm, xây dựng và phát triển thương hiệu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã và tổ hợp tác; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ hợp tác xã; nhân rộng các mô hình hợp tác xã điểm.
Thực hiện quyết liệt các mục tiêu về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và hội nhập quốc tế. Phát triển Không gian đổi mới sáng tạo Mekong thành trung tâm khởi nghiệp của vùng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện năng lực cạnh tranh, thu hút FDI và các nguồn lực xã hội hóa.
Thứ mười, phát triển toàn diện nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số, chính quyền số. Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên; xây dựng cơ chế chính sách lồng ghép nguồn lực để từng bước đưa Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong các trường có đủ điều kiện, phù hợp với định hướng của Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng nhân tài, tạo động lực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững của tỉnh trong thời kỳ mới.
Thứ mười một, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh Nhân dân vững chắc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh đối ngoại Nhân dân, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển bền vững; góp phần xây dựng tỉnh Vĩnh Long vững mạnh toàn diện, chủ động hội nhập và phát triển cùng cả nước.
Với khát vọng vươn lên mạnh mẽ, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của Nhân dân và doanh nghiệp, tin tưởng rằng tỉnh Vĩnh Long sẽ đổi mới mô hình tăng trưởng thành công, cơ cấu lại nền kinh tế hợp lý, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, từng bước trở thành địa phương phát triển năng động, giàu bản sắc trong vùng ĐBSCL và cả nước./.
* Giải pháp đột phá phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại
![]() |
Giám đốc Sở Xây dựng - Dương Văn Phúc trình bày tham luận. |
Thay mặt Sở Xây dựng, tôi thống nhất cao Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trình Đại hội. Để góp phần làm sâu sắc hơn các định hướng phát triển trong nhiệm kỳ tới, tôi xin trình bày tham luận với chủ đề “Nhiệm vụ và giải pháp đột phá phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cấu kết nối vùng và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững”.
Kính thưa Đại hội!
Hạ tầng đô thị và hạ tầng giao thông là các yếu tố then chốt, là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường củng cố quốc phòng an ninh. Xác định rõ tầm quan trọng đặc biệt của hệ thống hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông, nên xuyên suốt nhiều nhiệm kỳ qua, đặc biệt là nhiệm kỳ 2020-2025, tỉnh đã lãnh đạo ngành xây dựng, ngành giao thông nỗ lực hoàn thiện công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị của tỉnh đạt được nhiều kết quả nổi bậc, phát huy được tiềm năng, lợi thế để góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Thực hiện chủ trương sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, tỉnh Vĩnh Long mới sau khi hợp nhất đã có quy mô lớn về diện tích, dân số và có vị trí trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn về phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu kết nối vùng và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
1. Thực trạng hạ tầng giao thông, đô thị tỉnh Vĩnh Long sau hợp nhất
- Về đường bộ:
+ Cao tốc: Trên địa bàn tỉnh có 01 tuyến cao tốc đi qua với chiều dài khoảng 13Km (Tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ).
+ Quốc lộ: Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 09 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài 716Km, gồm QL.1, QL.53, QL.53B, QL.54, QL.57, QL.57B, QL.57C, QL.60 và QL.80.
+ Đường địa phương: Gồm có 29 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 737Km; 163 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 1.322Km.
- Ngoài hệ thống giao thông trọng điểm, giao thông kết nối tạo động lực phát triển đô thị và kinh tế xã hội nói chung, trên địa bàn tỉnh thời gian qua cũng đã quan tâm triển khai đầu tư phát triển hạ tầng khung tại các trục chính đô thị, hạ tầng các khu đô thị, khu dân cư mới,… ngoài việc đảm bảo cho phát triển hạ tầng dịch vụ, phục vụ nhu cầu phát triển đô thị còn góp phần thay đổi đáng kể diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại.
- Về đường thủy: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long có nhiều tuyến sông lớn gồm: sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên, sông Mang Thít, sông Hàm Luông, sông Ba Lai đổ ra biển Đông qua cửa Đại, cửa Hàm Luông, cửa Ba Lai, cửa Cổ Chiên, cửa Định An,… Tổng chiều dài đường thủy nội địa toàn tỉnh khoảng 2.117Km. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 03 cảng biển, các khu bến: Khu Bến Vĩnh Thái, Khu Bến Bình Minh, Khu Bến Tiềm Năng - Bình Tân; Cảng Duyên Hải - Định An, Cảng Trà Cú - Kim Sơn; Tân Cảng Giao Long có khả năng tiếp nhận cỡ tàu từ 5.000T-20.000T.
2. Thuận lợi
- Mạng lưới đường bộ, đường thủy trong tỉnh phân bố tương đối rộng khắp, kết nối các khu vực với nhau.
- Những năm gần đây, việc đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh trước khi hợp nhất nói riêng đã được Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đặc biệt quan tâm đầu tư, đạt được nhiều kết quả tích cực:
+ Đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án thành phần trên Tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, trong đó qua địa phận tỉnh Vĩnh Long có 02 dự án: (i) Dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 02 bắc qua sông Tiền; (ii) Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ, giai đoạn 1, với tổng chiều dài gần 23Km, đi qua địa phận hai tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp.
+ Đầu tư xây dựng hoàn thành cầu Rạch Miễu 02 nối liền 02 tỉnh Bến Tre và Tiền Giang (cũ).
+ Đang đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60 thuộc địa phận các tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng cũ (nay là tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ).
- Cùng với đó, thời gian qua, Sở xây dựng cũng đã chủ trì, phối hợp với các ngành tham mưu cho tỉnh triển khai đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp các tuyến đường tỉnh như: ĐT.902, ĐT.907, ĐT.910, ĐT.913, ĐT.915, ĐT.915B, … cũng như đầu tư xây dựng một số dự án, công trình quan trọng, nhằm nâng cao khả năng kết nối giao thương và mang tính liên kết vùng, nổi bật như: Dự án cầu Bưng Lớn, Dự án cầu Ba Động, Dự án Nâng cấp QL.57 đoạn từ phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày, Dự án cầu Ba Lai 8, … Hiện nay, tỉnh đang khẩn trương hoàn thiện các thủ tục để tổ chức lựa chọn nhà đầu tư xây dựng cầu Đình Khao trên QL.57 theo phương thức đối tác công tư. Dự kiến sẽ khởi công dự án trong tháng 12/2025.
- Sau khi, các dự án này hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng sẽ nối liền tuyến đường cao tốc từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Cần Thơ, nối liền tuyến QL.57 xóa bỏ điểm nghẽn tại bến phà Đình Khao và tạo mạng lưới giao thông liên kết vùng, sẽ giúp cho việc đi lại, hàng hóa lưu thông thuận lợi, các doanh nghiệp phát triển sản xuất tốt hơn và thu hút đầu tư, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh của tỉnh và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; góp phần tăng cường đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương và khu vực.
3. Khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như sau:
- Việc đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông của tỉnh vẫn chưa đạt được yêu cầu phát triển như mong muốn, vẫn còn một số điểm nghẽn. Tỷ lệ đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông nội vùng và liên vùng theo quy hoạch còn thấp.
- Việc triển khai hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng các dự án khu đô thị còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc; tỷ lệ đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa của vùng vẫn thấp hơn nhiều so với trung bình toàn quốc.
- Do nguồn vốn hạn chế, nên việc xây dựng các công trình thiếu tính đồng bộ. Hệ thống Quốc lộ qua địa bàn tỉnh Vĩnh Long còn nhỏ hẹp, mặt đường đã bị xuống cấp và hư hỏng nặng, nguy cơ tiềm ẩn và mất an toàn giao thông rất cao như QL.53, QL.54, QL.60.
- Nguồn vốn cho công tác duy tu, bảo trì các công trình giao thông đang khai thác chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu, nên chưa khai thác hết năng lực vận chuyển các công trình giao thông, làm ảnh hưởng đến lưu thông của các phương tiện vận tải.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ chưa phát triển, chỉ khai thác theo điều kiện tự nhiên, chưa đầu tư kinh phí cho việc nạo vét luồng tuyến. Một số công trình cầu trên các tuyến đường thuỷ huyết mạch không đảm bảo tĩnh không thông thuyền theo quy định, làm hạn chế khai thác các tàu tải trọng lớn, gây quá tải cho hệ thống đường bộ.
4. Các nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện
Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy phát triển hạ tầng đô thị, giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cấu kết nối vùng và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, Đảng ủy Sở Xây dựng xin đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp như sau:
4.1. Giải pháp về quy hoạch và đầu tư
Hoàn thiện quy hoạch tỉnh Vĩnh Long sau hợp nhất theo hướng đồng bộ với quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long và quy hoạch quốc gia, lấy hạ tầng giao thông và đô thị làm trục phát triển, gắn phát triển hạ tầng với bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực thoát nước, chống ngập đô thị, hướng tới đô thị xanh, thông minh và bền vững. Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới giao thông hiện đại, đa phương thức: Đường bộ cao tốc, quốc lộ, đường thủy nội địa và đường sắt (trong tương lai), nhằm tăng cường khả năng kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ và các cửa ngõ xuất khẩu, từng bước đồng bộ, hiện đại; kết nối hiệu quả giữa các loại hình giao thông và giữa hệ thống giao thông quốc gia với hệ thống giao thông địa phương.
(i) Về đường sắt: Quy hoạch định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 hoàn thành tuyến đường sắt hành lang trọng yếu Hồ Chí Minh - Cần Thơ, đoạn qua tỉnh Vĩnh Long sẽ có 02 nhà ga (Ga Mỹ Thuận và Ga Bình Minh).
(ii) Về đường bộ:
- Các tuyến Cao tốc: Quy hoạch và ưu tiên mời gọi đầu tư Tuyến Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ (giai đoạn 2); Tuyến Cao tốc Hồng Ngự - Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long); Tuyến Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng (CT.33).
- Các tuyến Quốc lộ: Tập trung đầu tư xây dựng các dự án mang tính định hướng chiến lược và có ý nghĩa liên kết vùng: (1) Dự án đầu tư xây dựng đường Võ Văn Kiệt kéo dài (kết nối với nút giao với Tuyến đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ). (2) Dự án đầu tư xây dựng cầu Đình Khao trên QL.57 theo phương thức đối tác công tư. (3) Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. (4) Dự án đầu tư xây dựng tuyến tránh QL.57 (đường dẫn vào cầu Đình Khao). (5) Dự án nâng cấp QL.57 đoạn từ giao với đường vào cầu Đình Khao đến cuối tuyến. (6) Dự án Nâng cấp QL.57C đoạn giáp QL.57B đến vòng xoay Tân Thành và đến cuối tuyến. (7) Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 53, Quốc lộ 54 qua tỉnh Vĩnh Long. (8) Dự án đầu tư xây dựng Quốc lộ 60 (mở rộng cầu Hàm Luông và nâng cấp, mở rộng các đoạn tuyến trên Quốc lộ 60). (9) Dự án Nâng cấp, mở rộng QL.57B đoạn từ giáp QL.57 đến cuối tuyến.
- Hệ thống đường địa phương:
+ Định hướng quy hoạch đến năm 2050 tất cả các tuyến đường tỉnh đạt cấp III, mặt đường tối thiểu 2-4 làn xe. Từ nay đến năm 2030, các tuyến sẽ được đầu tư nâng cấp tối thiểu đạt tiêu chuẩn cấp IV, mặt đường tối thiểu 2 làn xe.
+ Định hướng Quy hoạch hệ thống giao thông nông thôn cần phát huy lợi thế về địa lý và điều kiện tự nhiên của từng địa phương, kết hợp giữa giao thông với thủy lợi và các ngành kinh tế khác trên địa bàn nhằm đảm bảo khả năng vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân.
(iii) Về đường thủy
- Định hướng Phát triển giao thông thủy gắn kết với mạng lưới giao thông bộ tạo thành hệ thống liên hoàn, đảm bảo kết nối các vùng sản xuất, khu, cụm công nghiệp,… với các vùng tiêu thụ, đầu mối giao thông và phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa, phát triển du lịch.
- Ưu tiên nạo vét, nâng cấp luồng đường thủy trên các tuyến sông lớn trên địa bàn tỉnh, đảm bảo các tàu có tải trọng lớn hoạt động.
- Triển khai thực hiện Đề án nghiên cứu, đánh giá tiềm năng phát triển vùng biển nước sâu tại tỉnh Trà Vinh (cũ).
(iv) Về hạ tầng đô thị
Tiếp tục quan tâm đầu tư và kêu gọi đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, rà soát đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án khu đô thị mới, khu dân cư đô thị; triển khai có hiệu quả, đồng bộ các dự án nâng cấp đô thị, đảm bảo các giải pháp hạn chế tối đa tình trạng ngập tại các đô thị; ưu tiên cân đối nguồn lực triển khai đầu tư hệ thống xử lý nước thải đô thị, nhằm góp phần đảm bảo vệ sinh môi trường, phát triển bền vững đô thị.
4.2. Giải pháp về nguồn vốn
- Trong bối cảnh nguồn vốn để đầu tư cho kết cấu hạ tầng của tỉnh còn hạn chế, trong khi nhu cầu đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị rất lớn. Vì vậy, các sở, ngành tỉnh cần phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên rà soát, đánh giá thực tế nhu cầu phát triển hạ tầng từng khu vực để tham mưu đề xuất, điều chỉnh danh mục ưu tiên đầu tư hợp lý, đảm bảo đầu tư tập trung, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với khả năng cân đối các nguồn vốn.
- Tập trung mời gọi, thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách để tham gia đầu tư xây dựng các dự án, công trình giao thông nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển các dự án theo Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long. Khuyến khích, mời gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, giao thông, hạ tầng logistics thông qua cơ chế chia sẽ rủi ro và chính sách ưu đãi thuế.
4.3. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
- Triển khai nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước; có chính sách ưu tiên đào tạo trong và ngoài nước cho đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ quản lý phục vụ lâu dài trên địa bàn tỉnh. Phát triển đồng bộ đội ngũ nhân lực có chất lượng, đủ mạnh ở mọi lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
- Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực liên quan đến lĩnh vực giao thông, đô thị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức. Gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
4.4. Giải pháp về khoa học, công nghệ
- Ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới hiện đại vào thi công nhằm nâng cao chất lượng công trình hạ tầng giao thông đô thị, xây dựng hệ thống giao thông thông minh, thân thiện với môi trường.
- Thử nghiệm và ứng dụng nhiều công nghệ mới như gia cố nền đất yếu; công nghệ mặt đường bán mềm; công nghệ bê tông nhựa rỗng thoát nước; công nghệ dầm cánh rộng; các công nghệ xanh, giảm phát thải CO2 trong quá trình xây dựng hạ tầng và các công nghệ thi công mang tính bền vững, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, …
Kính thưa Đại hội!
Phát triển hạ tầng đô thị và hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long sau hợp nhất có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần nâng cao vai trò trung tâm kết nối của tỉnh Vĩnh Long với toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là cơ hội để tỉnh bứt phá, trở thành địa phương có hạ tầng hiện đại, kinh tế phát triển nhanh, bền vững, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao./.
* Nhiệm vụ, giải pháp đột phá phát triển kinh tế biển và năng lượng sạch - động lực cho kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long
![]() |
Giám đốc Sở Công thương- Trần Quốc Tuấn trình bày tham luận. |
Qua nghiên cứu các dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, Sở Công Thương thống nhất cao với những thành tựu mà Đảng bộ và Nhân dân tỉnh ta đã đạt được trong thời gian qua, cũng như những hạn chế, tồn tại được nêu trong dự thảo báo cáo.
Kính thưa quý vị đại biểu!
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển kinh tế biển được xác định là một trong những động lực quan trọng để Việt Nam thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tỉnh Vĩnh Long sau khi hợp nhất có 130 km bờ biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt, nhiều cửa sông quan trọng, đặc biệt là Khu kinh tế Định An - một trong những cửa ngõ chiến lược ra biển của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), phát triển kinh tế biển và năng lượng sạch là động lực chiến lược để Vĩnh Long khẳng định vị thế, gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững.
Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ I, nhiệm kỳ 2025–2030 đã xác định rõ: “Phát triển kinh tế biển gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số là trụ cột quan trọng, góp phần đưa Vĩnh Long trở thành trung tâm tăng trưởng mới của ĐBSCL”. Tỉnh Bến Tre (cũ) đã xây dựng và triển khai Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về phát Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến năm 2030; UBND tỉnh Trà Vinh (cũ) đã xây dựng và ban hành Quyết định 3746/QĐ-UBND ngày 24/11/2020 về Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, đây được xem là những bước đi đầu tiên trong phát triển kinh tế biển, không chỉ là định hướng chiến lược đúng đắn mà còn là động lực then chốt để Vĩnh Long thúc đẩy kinh tế xanh và đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Tham luận này sẽ tập trung phân tích thực trạng, tiềm năng, nhiệm vụ và đề xuất các giải pháp đột phá phát triển kinh tế biển, năng lượng sạch - động lực cho kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững của tỉnh giai đoạn 2025-2030.
Kính thưa Đại hội!
Giai đoạn 2021-2025, kinh tế tỉnh Vĩnh Long duy trì mức tăng trưởng GRDP bình quân 5,58%/năm . Năm 2025, quy mô nền kinh tế ước đạt 288.858 tỷ đồng, Khu vực công nghiệp - dịch vụ ven biển có những đóng góp quan trọng, đặc biệt tại Khu kinh tế Định An đã thu hút 56 dự án với tổng vốn đầu tư 48.000 tỷ đồng (2,65 tỷ USD); giá trị sản xuất công nghiệp đạt 12.300 tỷ đồng, đóng góp ngân sách gần 1.260 tỷ đồng.
Với đường bờ biển dài khoảng 130 km kết hợp với hệ thống hạ tầng giao thông đang được đầu tư đồng bộ, nhất là tuyến đường động lực ven biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và hiện nay đã khởi công một số hạng mục của dự án, Vĩnh Long đang có điều kiện để hình thành hành lang kinh tế biển và logistics, giữ vai trò là cửa ngõ xuất khẩu chiến lược của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, luồng vào cửa Định An có khả năng tiếp nhận tàu biển trọng tải lên đến 50.000 tấn vào sông Hậu chính là lợi thế hạ tầng mang tính nền tảng, không chỉ là động lực quan trọng thúc đẩy liên kết vùng, mà còn là tiền đề để Vĩnh Long từng bước vươn lên trở thành một trung tâm phát triển kinh tế biển hiện đại, gắn kết chặt chẽ với mạng lưới thương mại quốc tế.
Kính thưa Đại hội!
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đang vận hành 4 loại hình nguồn điện với tổng công suất đặt là ~ 5.422MW. Trong đó có 13 nhà máy điện gió (572 MW), 02 dự án điện mặt trời (189MW) và gần 5.000 hệ thống điện mặt trời áp mái nhà (tổng công suất lắp đặt gần 200 MW). Tỷ lệ công suất lắp đặt các nguồn điện từ năng lượng tái tạo chiếm 17%; ngoài ra còn có 14 dự án điện gió với tổng công suất gần 1.100 MW, 01 dự án điện sinh khối 25MW và 01 dự án điện đốt chất thải rắn 15MW đang được triển khai thi công và dự kiến vận hành trong năm 2025, 2026 sẽ giúp nâng tổng công suất nguồn lên 6.561MW, khi đó tỷ lệ nguồn điện từ năng lượng tái tạo chiếm đến 31% của tổng công suất lắp đặt các nguồn điện trên địa bàn, cơ bản đạt mục tiêu Nghị quyết nhiệm kỳ 2025-2030.
Ngoài ra còn có dự án sản xuất hydro xanh với công suất: 24.000 tấn Hydro; 182.500 tấn Amoniac; 195.000 tấn Oxy đang được triển khai hứa hẹn sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy hệ sinh thái cho ngành công nghiệp xanh, kinh tế xanh trong tương lai.
Thưa toàn thể Đại hội
Tỉnh Vĩnh Long sở hữu vùng nước lợ và vùng ven biển thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Toàn tỉnh có khoảng 97.750 ha diện tích phục vụ nuôi trồng thủy sản, sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng tăng bình quân 5%/năm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư chế biến xuất khẩu tôm, cá tra, nghêu, sò, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nông - thủy sản của tỉnh vượt 1,5 tỷ USD năm 2024.
Bên cạnh đó, toàn tỉnh hiện có 06 trung tâm thương mại, 16 siêu thị, hơn 401 chợ truyền thống. Ngành thương mại điện tử tăng trưởng bình quân 20%/năm. Giai đoạn 2016-2025 tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt 24.389 tỷ USD, tăng bình quân 10.86%/năm.
Du lịch có bước phát triển khá, giai đoạn 2021-2025 đón 28,28 triệu lượt khách (trong đó 2,62 triệu khách quốc tế), doanh thu đạt 23.335 tỷ đồng . Các sản phẩm du lịch biển, du lịch sinh thái, lễ hội văn hóa Khmer và du lịch miệt vườn đang dần trở thành thương hiệu của tỉnh.
* Tuy nhiên, các ngành công nghiệp chưa phát triển tương xứng, một số dự án còn chậm tiến độ, cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ và chưa hoàn thiện, không hấp dẫn các nhà đầu tư lớn; một số dự án triển khai chậm tiến độ so với chủ trương đề ra.
Kính thưa Đại hội!
Căn cứ thực trạng, tiềm năng và định hướng của Trung ương, Sở Công Thương đề xuất 04 nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế biển, năng lượng sạch giai đoạn 2025-2035, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính định hướng lâu dài.
Một là, mở rộng không gian phát triển ven biển
Thực hiện lập và điều chỉnh quy hoạch không gian biển, vùng ven biển gắn với quy hoạch tỉnh. Xem xét thực hiện các dự án lấn biển, mở rộng diện tích cho sản xuất, công nghiệp, đô thị, vừa chống xói lở vừa ứng phó nước biển dâng. Hình thành đô thị ven biển, đô thị biển làm hạt nhân tăng trưởng.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cảng biển, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Phát huy lợi thế vị trí “cửa ngõ” ra biển Đông, hình thành hành lang kinh tế ven biển kết nối chặt chẽ với các tỉnh trong vùng thông qua tuyến đường động lực ven biển và luồng Định An. Trên nền tảng đó, từng bước phát triển hệ thống cảng biển, cảng cạn (ICD), logistics lạnh, vận tải đa phương thức, hướng đến xây dựng Trung tâm logistics biển của ĐBSCL đặt tại Khu kinh tế Định An.
Cùng với đó, tập trung thu hút đầu tư các công trình và dự án phát triển kinh tế, bao gồm khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đô thị ven biển, cảng sông, cảng biển, khu vui chơi giải trí, công nghiệp chế biến thủy sản, công nghiệp đóng tàu, du lịch biển - sinh thái - nông nghiệp. Đặc biệt, ưu tiên triển khai tại các xã ven biển theo định hướng Quy hoạch tỉnh, nhằm tạo sức bật mới cho kinh tế biển.
Hai là, phát triển năng lượng tái tạo và trung tâm năng lượng sạch
Tận dụng tiềm năng gió, nắng và vùng mặt nước rộng, Vĩnh Long hướng đến hình thành tổ hợp năng lượng tái tạo quy mô lớn với điện gió, điện mặt trời, điện khí LNG và hydro xanh, phấn đấu đạt công suất vận hành trên 4.000 MW vào năm 2030. Xây dựng và ban hành chính sách đặc thù cho đầu tư vào năng lượng mới; Cơ chế chính sách thu hút đầu tư theo hướng cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư phát triển nhằm đạt mục tiêu trở thành trung tâm xuất khẩu năng lượng tái tạo quốc gia, gắn liền với hạ tầng truyền tải điện liên vùng. Đồng thời, việc thu hút các tập đoàn quốc tế đầu tư vào công nghệ lưu trữ, hệ thống sử dụng hydrogen trong lưu trữ năng lượng và hệ thống điện thông minh sẽ mở ra hướng phát triển bền vững, đón đầu xu thế năng lượng mới
Ba là, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ven biển
Trên cơ sở khai thác lợi thế ven biển, thực hiện định hướng tổ chức lại sản xuất và chế biến thủy sản theo mô hình liên kết hợp tác xã – doanh nghiệp – nông dân, hình thành chuỗi giá trị khép kín từ nuôi trồng, khai thác, chế biến đến xuất khẩu. Song song đó, từng bước xây dựng các cụm công nghiệp chế biến nông – thủy sản gắn chặt với vùng nguyên liệu chủ lực như dừa, cây ăn trái và thủy sản.
Thực hiện, đẩy mạnh nuôi trồng thủy - hải sản ven biển và trên biển ứng dụng công nghệ cao, tuần hoàn, thân thiện môi trường, đồng thời phát triển khai thác xa bờ hiện đại, bảo đảm quản lý chặt chẽ và bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Mục tiêu hướng đến là hình thành một nền thủy sản vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa bảo đảm tính bền vững sinh thái.
Xây dựng cơ chế đặc thù cho phát triển ven biển, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư. Hỗ trợ ngư dân, doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bốn là, quản lý bền vững tài nguyên và môi trường
Thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên và vùng ven biển theo hướng bền vững, gắn với quy hoạch không gian biển và phân vùng chức năng hợp lý, nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên; Chú trọng bảo vệ, phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn; kiểm soát ô nhiễm, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.
Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn thông qua đầu tư hạ tầng thủy lợi, tăng cường quan trắc, cảnh báo sớm và chuyển đổi sinh kế phù hợp, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh và bền vững.
Kính thưa Đại hội!
Để hiện thực hóa các nhiệm vụ trọng tâm, Sở Công Thương đề xuất tập trung triển khai 05 nhóm giải pháp đột phá sau:
Một là, hoàn thiện thể chế chính sách.
Xây dựng cơ chế ưu đãi đặc thù về thuế, đất đai, tín dụng để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nuôi trồng, chế biến, logistics, du lịch sinh thái, đặc biệt là kiến nghị Trung ương thí điểm cơ chế đặc thù để phát triển năng lượng tái tạo, tạo động lực cho kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững của Vĩnh Long nói riêng và Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung.
Quy hoạch phát triển không gian kinh tế biển và ven sông tỉnh Vĩnh Long; thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý tài nguyên, môi trường, kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo vệ hệ sinh thái.
Hai là, liên kết vùng và tổ chức không gian phát triển
Tham gia tích cực vào liên kết vùng ĐBSCL, Nghiên cứu xây dựng mô hình “Một trục - Hai cánh - Ba động lực”: trục hành lang ven biển, cánh Đông là năng lượng - công nghiệp, cánh Tây là nông nghiệp - thủy sản, ba động lực gồm kinh tế biển (năng lượng tái tạo); logistics và du lịch. Kết nối chặt chẽ Khu kinh tế Định An với cảng Cái Mép - Thị Vải và TP.HCM.
Ba là, thu hút đầu tư chiến lược và công nghệ cao
Ưu tiên các nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực năng lượng sạch, chip bán dẫn, công nghiệp điện tử, công nghệ AI. Hình thành Khu thương mại tự do tại Khu kinh tế Định An, với ưu đãi thuế, hải quan, hạ tầng hiện đại để cạnh tranh quốc tế.
Bốn là, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực
Phát triển chính quyền điện tử, đô thị thông minh, ứng dụng số hóa trong quản lý cảng biển, logistics, du lịch. Thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực biển - logistics - năng lượng đạt chuẩn quốc tế. Liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước để đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Năm là, phát triển kinh tế xanh - tuần hoàn - thích ứng biến đổi khí hậu
Xây dựng Quỹ hỗ trợ phát triển nghề cá Vĩnh Long nhằm nâng cao năng lực khai thác bền vững, hỗ trợ hạ tầng cảng cá, dịch vụ hậu cần.
Khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong chế biến dừa, nông sản, thủy sản.
Kính thưa Đại hội!
Vĩnh Long phấn đấu đến 2035 trở thành trung tâm năng lượng tái tạo, logistics và sản xuất nông - thủy sản xanh gắn với chế biến sâu, là điểm đến du lịch sinh thái - văn hóa đặc sắc. Muốn vậy, tỉnh cần sự hỗ trợ chính sách từ Trung ương, liên kết vùng và đồng hành của doanh nghiệp, nhân dân, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển hùng cường của đất nước./.
* Đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, hình thành động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế
![]() |
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ- Đoàn Hồng Hạnh trình bày tham luận. |
Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững, bảo đảm độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập sâu rộng với thế giới. Xu thế chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, chuyển đổi xanh đang trở thành động lực chính của tăng trưởng toàn cầu. Trong nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chiến lược quan trọng như: Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; các chương trình mục tiêu về kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, phát triển năng lượng tái tạo.
Đặc biệt, sau khi hợp nhất Vĩnh Long bước sang một giai đoạn phát triển mới với quy mô lớn hơn, tiềm lực mạnh hơn và lợi thế vượt trội hơn, với hơn 3,5 triệu dân, nguồn lao động trẻ, dồi dào; diện tích tự nhiên, tài nguyên đa dạng; hệ sinh thái nông nghiệp, công nghiệp, biển, đảo phong phú; hệ thống giao thông kết nối vùng ngày càng đồng bộ. Đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh khẳng định vị thế mới, tiên phong trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, khởi nghiệp sáng tạo góp phần tăng trưởng mới cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện quyết tâm đổi mới và thích ứng với xu thế phát triển.
Về chuyển đổi số, đã hình thành và vận hành nền tảng “Bình dân học vụ số”, thu hút hơn 91.000 lượt học viên, góp phần phổ cập kỹ năng số cho người dân nông thôn, phụ nữ, người cao tuổi, thanh niên và đồng bào dân tộc thiểu số. Các dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt, hóa đơn điện tử, sổ sức khỏe điện tử được triển khai rộng rãi. Tỷ trọng kinh tế số đóng góp trong GRDP đã tăng từ 6,22% năm 2020 lên 7,5% năm 2024, cho thấy chuyển đổi số dần trở thành một trong những động lực mới cho tăng trưởng.
Về nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, toàn tỉnh đã hình thành nhiều mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ ở các cây trồng chủ lực như lúa, dừa, bưởi, cam, xoài, chôm chôm, rau màu… Một số hợp tác xã và doanh nghiệp đã bước đầu áp dụng quy trình nông nghiệp tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm rơm rạ, vỏ trái cây để sản xuất phân bón hữu cơ, thức ăn chăn nuôi và khí sinh học. Tuy nhiên, diện tích nông nghiệp hữu cơ còn khiêm tốn, khoảng 10 nghìn hecta, chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng diện tích gieo trồng.
Về năng lượng tái tạo, tỉnh có bờ biển dài 130 km, được phê duyệt 53 dự án điện gió với tổng công suất 4.209 MW, 05 dự án điện mặt trời tập trung công suất 339 MW, 03 nhà máy điện sinh khối công suất 45 MW và 03 nhà máy điện rác công suất hơn 30 MW. Hiện đã đưa vào vận hành 13 nhà máy điện gió (572 MW), 02 dự án điện mặt trời (189 MW) và hơn 4.400 hệ thống điện mặt trời mái nhà (163,8 MW). Ngoài ra, 14 dự án điện gió chuyển tiếp (1.100 MW) đang được hỗ trợ triển khai; 08 dự án (365 MW) đang mời gọi đầu tư và 18 dự án (2.142 MW) đang nghiên cứu tiền khả thi. Với tiến độ này, tỷ lệ điện tái tạo của tỉnh dự kiến tăng từ 17% hiện nay lên khoảng 31% vào năm 2026.
Về công nghiệp xanh và sản xuất sạch hơn, một số doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tuy nhiên, tỷ lệ còn thấp, tỉnh chưa có khu công nghiệp sinh thái đúng nghĩa, việc đầu tư công nghệ sạch còn hạn chế do năng lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu.
Những kết quả trên thể hiện sự nỗ lực lớn, nhưng cũng cho thấy còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Đại hội Đảng bộ tỉnh cũng đã xác định ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn với kinh tế số và kinh tế xanh chính là một trong những đột phá chiến lược để hình thành động lực tăng trưởng mới, do đó cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Một là, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trên mọi lĩnh vực, từ chính quyền, doanh nghiệp đến cộng đồng. Chuyển đổi số là công cụ cốt lõi để đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng suất lao động và mở rộng thị trường. Xây dựng chính quyền số hiện đại, phát triển dữ liệu số đồng bộ, liên thông; 100% sản phẩm chủ lực lên sàn thương mại điện tử, phát triển hệ thống logistics thông minh, ứng dụng blockchain và trí tuệ nhân tạo trong truy xuất nguồn gốc và dự báo sản xuất; phổ cập kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, khuyến khích thanh toán số, y tế số, giáo dục số, thương mại điện tử thông qua phong trào “Bình dân học vụ số”.
Hai là, đẩy mạnh chuyển đổi xanh gắn với ứng dụng công nghệ, phát triển nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn; mở rộng mô hình hợp tác xã xanh. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất năng lượng sinh học, phân bón hữu cơ; khuyến khích hợp tác xã, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tiết kiệm năng lượng. Đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng, xử lý chất thải trong công nghiệp. Mở rộng các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, điện rác. Nhân rộng mô hình sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng.
Ba là, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Phát huy vai trò của Trung tâm Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; khuyến khích doanh nghiệp lớn đặt hàng giải pháp công nghệ từ startup. Tổ chức thường niên Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo Vĩnh Long để kết nối ý tưởng, vốn, công nghệ và thị trường; Triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, kinh tế biển xanh. Tăng cường liên kết với viện, trường, trung tâm nghiên cứu trong và ngoài nước để đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường liên kết vùng. Xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp xanh - số, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Gắn kết quả triển khai chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp sáng tạo vào tiêu chí đánh giá, thi đua khen thưởng của địa phương, đơn vị. Tăng cường liên kết vùng, gắn kết chặt chẽ với TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ.
Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đưa kỹ năng số, kỹ năng xanh vào giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, đại học. Mở rộng phong trào “Bình dân học vụ số”. Liên kết với các viện, trường uy tín trong và ngoài nước để đào tạo đội ngũ chuyên gia về công nghệ số, năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn, quản trị đổi mới sáng tạo.
Có thể khẳng định rằng, sau hợp nhất, Vĩnh Long có quy mô lớn hơn, tiềm lực mạnh hơn, lợi thế vượt trội hơn. Đây là cơ hội để tỉnh tập trung trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, hình thành động lực tăng trưởng mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội đã đề ra./.
* Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh Vĩnh Long.
![]() |
Giám đốc Sở Tài chính- Trương Đặng Vĩnh Phúc trình bày tham luận. |
Việc thu hút vốn đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong điều hành phát triển kinh tế- xã hội, luôn được lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long quan tâm chỉ đạo quyết liệt, nhất quán và xuyên suốt, nhằm tạo nền tảng xây dựng, phát triển kinh tế tỉnh nhà bền vững, thịnh vượng. Xác định được tầm quạn trọng đó, thời gian qua địa phương đã và đang tập trung thực hiện nhiều giải pháp để đẩy mạnh thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thông qua các hoạt động như: (1) Thực hiện số hóa dữ liệu các khu cụm công nghiệp trên nền tảng bản đồ số 4D, số hóa hiện trạng khu vực/vị trí dự án mời gọi đầu tư; (2) Triển khai đánh giá năng lực điều hành cấp sở, ban, ngành và địa phương thuộc tỉnh (DDCI) để góp phần nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh chung của tỉnh; (3) Định kỳ hàng tháng tổ chức Cà phê doanh nghiệp, tổ chức chương trình đối thoại doanh nghiệp nhằm lắng nghe và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình đầu tư, vận hành dự án; (4) Đa dạng hóa hình thức hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư nhằm đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả và từng bước thiết lập hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; (5) Xây dựng các chính sách đặc thù khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh;...
Với nhiều nổ lực triển khai, kết quả có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu các cơ hội hợp tác đầu tư trên địa bàn tỉnh; số doanh nghiệp thành lập mới tăng; Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của 03 tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh (cũ) không ngừng được cải thiện qua từng năm, đặc biệt tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (cũ) luôn thuộc nhóm điều hành tốt của cả nước. Giai đoạn 2021-2025, toàn tỉnh thu hút được 150 dự án đầu tư, với tổng vốn đăng ký 57.137,96 tỷ đồng và 557,31 triệu USD, trong đó có 119 dự án đầu tư trong nước và 31 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); phát triển mới 8.011 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký 69.988,014 tỷ đồng. Lũy kế đến thời điểm hiện tại (tính đến hết tháng 9/2025), toàn tỉnh còn trên 935 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký trên 234.000 tỷ đồng và trên 5,65 tỷ USD; có 24.486 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng vốn đăng ký là 860.351,474 tỷ đồng (trong đó có 12.127 doanh nghiệp đang hoạt động, với tổng vốn đăng ký là 196.420,202 tỷ đồng).
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể: (1) Tỉnh thiếu quỹ đất sạch để thu hút, mời gọi đầu tư; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án;.... (2) Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng lớn, công nghệ cao; thủ tục hành chính đôi khi còn rườm rà, thiếu minh bạch; hạ tầng kỹ thuật chưa được đầu tư đồng bộ, chất lượng chưa cao, hạ tầng giao thông kết nối liên vùng vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển; (3) Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, công nghệ và thị trường nên hoạt động sản xuất - kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chưa đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững; quy mô doanh nghiệp tuy tăng nhanh nhưng chưa có nhiều doanh nghiệp đủ sức làm đầu tàu, dẫn dắt chuỗi giá trị; (4) Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh còn hạn chế; năng suất lao động chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế và chưa đồng đều.
Kính thưa Đại hội!
Từ thực tiễn trên, để đẩy mạnh thu hút đầu tư, xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn và bền vững, tạo động lực thật sự thúc đẩy phát triển vai trò của kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2025 - 2030, Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Long xin đề xuất một số giải pháp trọng tâm cần phải tiếp tục tập trung thực hiện cụ thể như sau:
1. Nhóm giải pháp về thu hút đầu tư
Một là, tập trung điều chỉnh, bổ sung và triển khai Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đảm bảo phù hợp không gian phát triển mới và đồng bộ, thống nhất với quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xúc tiến, và thu hút đầu tư
Hai là, đổi mới hình thức xúc tiến đầu tư, chuyển từ hoạt động xúc tiến đầu tư theo quy mô lớn sang tiếp cận theo ngành, lĩnh vực, dự án và có trọng tâm, trọng điểm; từng bước hướng tới các nhà đầu tư lớn, có thế mạnh về công nghệ, vốn, kĩ năng quản lý đến từ Mỹ, EU, Nhật Bản… và các tập đoàn lớn trong nước. Tận dụng hiệu quả nhiều kênh xúc tiến đầu tư thông qua việc xúc tiến đầu tư “tại chỗ”; tăng cường hợp tác với các Hiệp hội doanh nghiệp như JETRO, KOTRA..., Đại sứ, Tham tán nước ngoài để mở rộng phạm vi tiếp cận nhà đầu tư, đối tác, quảng bá tiềm năng và thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.
Ba là, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động xúc tiến đầu tư; ứng dụng công nghệ số để xây dựng hệ thống thông tin, cổng thông tin điện tử và quảng bá hiệu quả; kết hợp xúc tiến đầu tư với thương mại, du lịch để tạo hệ sinh thái thu hút đầu tư bền vững. Chuẩn hóa trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách công tác xúc tiến đầu tư.
Bốn là, tạo quỹ đất sạch thu hút các dự án đầu tư; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp để đảm bảo đủ điều kiện thu hút các dự án đầu tư thứ cấp. Trong đó, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hạ tầng khu công nghiệp Phú Thuận để thu hút nhà đầu tư thứ cấp ngay từ đầu năm 2026; hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng để triển khai đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp Đông Bình, Bình Tân…; thu hút đầu tư lấp đầy 100% diện tích khu công nghiệp Hòa Phú và Bình Minh; hoàn thiện việc điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Định An để tiếp tục kêu gọi đầu tư.
2. Nhóm giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Một là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: Đơn giản hóa, công khai, minh bạch các thủ tục liên quan đến đầu tư, đất đai, xây dựng, thuế... Áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong giải quyết hồ sơ để tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi công vụ, góp phần ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà trong giải quyết công việc cho nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Hai là, cải thiện cơ sở hạ tầng: Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống giao thông, đặc biệt là các tuyến đường kết nối với các cảng biển, sân bay và các trung tâm kinh tế lớn; đồng thời cần phát triển hạ tầng kỹ thuật khác như điện, nước, viễn thông để đảm bảo cung ứng ổn định, tạo niềm tin với các nhà đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ các dự án nhất là các dự án trọng điểm nhằm tạo sự lan tỏa, tạo động lực thu hút các nguồn lực đầu tư tư nhân, nước ngoài.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Tăng cường liên kết giữa các trường đào tạo với doanh nghiệp để đào tạo nhân lực theo nhu cầu của thị trường; chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề, có tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật cao để phát huy lợi thế nguồn nhân lực của tỉnh. Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo lại và nâng cao tay nghề cho người lao động, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp.
Bốn là, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng: Xây dựng cơ chế đối thoại thường xuyên giữa chính quyền và doanh nghiệp để nắm bắt và kịp thời hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
3. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế tư nhân
Một là, hỗ trợ tiếp cận vốn và công nghệ: Xây dựng các chính sách ưu đãi về vốn vay, lãi suất cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ doanh nghiệp.
Hai là, phát triển chuỗi liên kết giá trị: Hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ba là, phát huy vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp, làm cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền và các Hiệp hội để nắm bắt kịp thời các vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp; thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp để cùng phát triển.
Bốn là, triển khai quyết liệt Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong khu vực kinh tế tư nhân. Triển khai Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ.
Năm là, hỗ trợ hình thành doanh nghiệp dẫn đầu có quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt ở một số ngành, lĩnh vực hoặc dẫn đầu trong chuỗi giá trị. Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực để kết nối với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI.
4. Nhóm giải pháp về nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Một là, tập trung các ngành kinh tế mũi nhọn: Tỉnh Vĩnh Long cần xác định rõ các ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh như nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, công nghiệp chế biến nông sản và tập trung nguồn lực để phát triển.
Hai là, thúc đẩy đổi mới sáng tạo: Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và phát triển (R&D) trong các doanh nghiệp. Thành lập các vườn ươm doanh nghiệp để hỗ trợ các ý tưởng kinh doanh sáng tạo.
Ba là, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế: Hỗ trợ các doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết để mở rộng thị trường xuất khẩu. Triển khai Chương trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global); tập trung các giải pháp hỗ trợ về thị trường, thương hiệu, kênh phân phối, tư vấn, pháp lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, mua bán sáp nhập, kết nối với các tập đoàn đa quốc gia...
Kính thưa Đại hội!
Đẩy mạnh thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân và nâng cao sức cạnh tranh là một quá trình lâu dài và cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Tôi tin rằng với sự quyết tâm, đồng lòng, tỉnh Vĩnh Long sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thực sự hấp dẫn, nơi các doanh nghiệp có thể phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển bền vững của tỉnh nhà./.
* Đột phá khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long
![]() |
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch- Dương Hoàng Sum trình bày tham luận. |
Trước hết, tôi thống nhất với Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Được sự phân công của Đại hội, tôi xin trình bày tham luận “Nhiệm vụ, giải pháp đột phá khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long” để tham gia phát biểu tại đại hội hôm nay.
Kính thưa Đại hội, quý lãnh đạo, quý đại biểu!
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre nhiệm kỳ 2020 - 2025 đều đã xác định nhiệm vụ giải pháp đối với ngành du lịch là: Khai thác và phát huy tốt tiềm năng và lợi thế để định hướng đến năm 2030 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; hình thành các sản phẩm du lịch đặc trưng có thế mạnh của tỉnh như: Du lịch sông nước miệt vườn, du lịch cộng đồng; du lịch biển kết hợp tham quan điện gió, du lịch sinh thái, homestay, du lịch văn hóa, lễ hội... Tăng cường kết nối du lịch Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre cũ với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; tiếp tục đầu tư hạ tầng các khu du lịch trọng điểm; tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá và đào tạo nguồn nhân lực du lịch có năng lực, tính chuyên nghiệp, chú trọng văn hóa ứng xử và phong cách phục vụ; xây dựng môi trường du lịch an toàn, văn minh, nâng cao sức hấp dẫn du khách để tăng thời gian lưu trú, chi tiêu bình quân và tỷ lệ quay lại của khách du lịch. Khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ người dân địa phương tham gia làm du lịch.
Để triển khai các nhiệm vụ giải pháp mà Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre cũ, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu tỉnh nhiều văn bản, chính sách để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, phấn đấu đến năm 2030 du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, như: Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐND ngày 10/6/2022 của Hội đồng nhân tỉnh Quy định về một số chính sách hỗ trợ phát triển trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2022-2025; Nghị quyết số 12/2019/NQ-HĐND ngày 03 tháng 7 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bến Tre quy định một số chính sách hỗ trợ kinh phí khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2025; Nghị quyết số 173/2019/NQ-HĐND ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Tham mưu tỉnh tích hợp hợp phần quy hoạch ngành Văn hóa, thể thao và Du lịch vào Quy hoạch tỉnh Trà Vinh, Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Cụ thể hóa chủ trương của Trung ương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh về phát triển du lịch bằng các Đề án, Quyết định, Kế hoạch,... của Ủy ban nhân dân tỉnh và ngành VHTTDL ban hành để thực hiện Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030; Chương trình xúc tiến du lịch giai đoạn 2021 - 2025; Triển khai Chương trình liên kết, hợp tác phát triển du lịch với Thành phố Hồ Chí Minh và 13 tỉnh, thành ĐBSCL giai đoạn năm 2022 - 2025...
Để khai thác và phát huy tốt tiềm năng và lợi thế, hình thành các sản phẩm du lịch đặc trưng và thế mạnh của tỉnh, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp, mời gọi các dự án đầu tư du lịch, tái cấu trúc lại sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ các khu, điểm du lịch của tỉnh. Tại Vĩnh Long cũ, đã ban hành các Đề án: đề án “Quy hoạch phát triển Văn hóa Du lịch tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, tầm nhìn 2030” gắn với thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TU, ngày 06/11/2015 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù trên tỉnh Vĩnh Long”; Đề án Di sản đương đại Mang Thít (Đề án Khu lò gạch, gốm Mang Thít); Đề án ứng dụng Công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; Đề án Bảo tàng Nông nghiệp vùng ĐBSCL; Đề án xây dựng khai thác phát triển du lịch tại khu vực Bến cảng hành khách Vĩnh Long; tập trung chỉ đạo phát triển hạ tầng phục vụ du lịch, nhiều công trình liên quan lĩnh vực du lịch được đưa vào hoạt động phục vụ khách du lịch như: Bến cảng hành khách Vĩnh Long; Đường gốm đỏ và hoa dài nhất Việt Nam; Tiểu cảnh công viên gốm đỏ. Ngoài ra, xây dựng sản phẩm du lịch mới, trọng điểm, chú trọng sản phẩm du lịch cộng đồng như du lịch cộng đồng tại địa bàn Cù lao Mây, huyện Trà Ôn; Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng Cồn Giông,… Dự án mời gọi đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, du lịch với tổng vốn đầu tư mời gọi khoảng 3.480 tỷ đồng (Dự án Đầu tư Khu lò gạch, gốm Mang Thít với vốn đầu tư mời gọi là 3.450 tỷ đồng; Dự án Đầu tư Khu liên hợp văn hóa, thể thao, du lịch Cái Ngang với vốn đầu tư mời gọi là 30 tỷ đồng). Thẩm định, cấp chứng nhận đăng ký đầu tư cho 03 nhà đầu tư vào lĩnh vực du lịch với số vốn đăng ký là 2.100 tỷ đồng; trong lĩnh vực đầu tư công, trong giai đoạn 2021-2025, cân đối bố trí 504 tỷ đồng cho 28 lượt công trình, dự án đầu tư cải tạo, sửa chữa, nâng cấp công trình di tích lịch sử cấp quốc gia, cấp tỉnh.
Khu vực Trà Vinh, hỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án khu tham quan, nghỉ dưỡng biển Ba Động, làm việc với các chủ đầu tư dự án điện gió để khai thác phát triển du lịch, nâng cấp điểm du lịch cộng đồng Cồn Chim, mô hình du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng Cồn Hô, mô hình du lịch nông nghiệp Cồn Ông; Làng Văn hóa - Du lịch Khmer Trà Vinh, Khu di tích lịch sử Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu di tích danh lam thắng cảnh quốc gia Ao Bà Om, điểm du lịch sinh thái Huỳnh Kha,... Hoàn thành và đưa vào sử dụng công trình hạ tầng du lịch Biển ba Động với tổng kinh phí 90 tỷ đồng (từ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ 75 tỷ, vốn ngân sách tỉnh 15 tỷ đồng); Đầu tư 280 tỷ đồng để đầu tư hạ tầng giao thông phục vụ phát triển du lịch tại Khu du lịch biển Ba Động (130 tỷ đồng) và Khu du lịch Hàng Dương, huyện Cầu Ngang (150 tỷ đồng). Đã thu hút các nguồn lực xã hội trên 2.500 tỷ đồng đầu tư dự án du lịch tại khu du lịch biển Ba Động, làng Văn hóa - Du lịch Khmer, trùng tu, tôn tạo các di tích, tổ chức lễ hội, nhà hàng, khách sạn, điểm mua sắm, vui chơi, giải trí... tạo thêm sản phẩm, dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu phục vụ khách du lịch. Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng trên địa bàn tỉnh nhằm quản lý, thu hút kêu gọi đều tư phát triển du lịch các dự án như: Khách sạn 5 sao tại thành phố Trà Vinh; Khu Văn hóa - Du lịch nghỉ dưỡng Ao Bà Om; Khu du lịch sinh thái nông trường 22/12; Khu du lịch tham quan nghỉ dưỡng Ba Động - Giai đoạn 2; Khu du lịch sinh thái Hàng Dương, huyện Cầu Ngang.
Khu vực Bến Tre, tập trung triển khai nhiều dự án hạ tầng phục vụ phát triển du lịch; có 23 dự án với tổng mức đầu tư dự kiến 6.000 tỷ đồng, đề án Làng Văn hóa Du lịch Chợ Lách đã thông qua đồ án Quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 Khu du lịch cồn Cái Gà, xã Chợ Lách. Có 14 dự án về du lịch và có 06 chương trình, dự án về lĩnh vực du lịch ưu tiên thu hút đầu tư được tích hợp vào Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ký kết Thỏa thuận hợp tác với 21 nhà đầu tư hoạt động trong lĩnh vực du lịch và đã đẩy mạnh và tập trung mời gọi đầu tư các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng ven biển, ven sông để phát triển du lịch sinh thái gắn với du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, trong đó tập trung đầu tư hệ thống các di tích lịch sử truyền thống văn hoá và hệ thống các thiết chế văn hoá để gắn kết phát huy giá trị di sản văn hoá trong phát triển du lịch; tạo điểm nhấn, nét riêng có, trong đó lấy chủ đề “văn hóa dừa” làm điểm nhấn trong phát triển và xây dựng thương hiệu hình ảnh, điểm đến du lịch của tỉnh.
Là vùng đất “địa linh - nhân kiệt” gắn liền bó lâu đời của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer với truyền thống cách mạng hào hùng, các vị anh hùng dân tộc, VĩnhLong có nhiều tiềm năng về du lịch văn hóa – lịch sử như: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nữ tướng Nguyễn Thị Định, nữ anh hùng Nguyễn Thị Út (Út Tịch), Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Giáo sư – Anh hùng Lao động – Thầy thuốc nhân dân Nguyễn Thiện Thành.…Tỉnh Vĩnh Long là nơi cộng cư, gắn bó lâu đời của ba dân tộc chính Kinh, Khmer, Hoa đã hội tụ và tạo nên nét văn hóa riêng với nhiều lễ hội truyền thống, văn hóa nghệ thuật đặc sắc, di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Toàn tỉnh có 03 bảo vật quốc gia, 16 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và 214 di tích đã được xếp hạng, trong đó có 02 tích quốc gia đặc biệt, 45 di tích cấp quốc gia và 167 di tích cấp tỉnh là điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch văn hóa – lịch sử.
Ngoài ra, tỉnh hiện có hơn 70 làng nghề truyền thống với các nghề: Dệt chiếu, đan đát, làm bánh tráng, làm kẹo dừa, làm gốm… Một số làng nghề nổi bật thu hút du khách đến tham quan, trải nghiệm văn hoá bản địa như Làng nghề bánh tét Trà Cuôn, Làng chiếu Cà Hom, Làng nghề khai thác, sơ chế, chế biến thủy hải sản thị trấn Mỹ Long, Làng nghề sản xuất rượu Xuân Thạnh, Làng nghề trồng hoa kiểng Long Bình, làng nghề gạch gốm Mang Thít, Làng mai vàng Phước Định, Làng nghề bánh tráng cù lao Mây, làng nghề bánh tráng giấy Tam Bình, làng nghề tàu hủ ky Bình Minh, Làng nghề truyền thống bánh phồng Sơn Đốc, Làng nghề truyền thống bánh tráng Mỹ Lồng, Làng nghề Hoa kiểng - cây giống Chợ Lách, Làng nghề truyền thống đan đát Phước Tuy, Làng nghề truyền thống dệt chiếu Nhơn Thạnh, Làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chỉ sơ dừa An Thạnh… Đây là nguồn tài nguyên văn hóa nổi trội để phát triển du lịch làng nghề.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Toàn tỉnh hiện có 356 cơ sở lưu trú, trong đó có 121 khách sạn (1 khách sạn 5 sao), 163 nhà nghỉ, 70 Homestay. Tỉnh có 25 điểm du lịch được Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long công nhận là điểm du lịch tiêu biểu và 13 khu, điểm du lịch cấp tỉnh. Có 5 Homestay của tỉnh đã đạt giải thưởng nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê (Homestay) ASEAN 2025 và điểm du lịch Cồn Chim đạt giải thưởng Du lịch cộng đồng ASEAN.
Thời gian qua, tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách của Trung ương và địa phương thực hiện kịp thời, đúng đối tượng đã kịp thời chia sẻ, khuyến khích, động viên các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động du lịch, tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh, từng bước phục hồi và phát triển hoạt động du lịch. Công tác truyền thông, quảng bá, xúc tiến du lịch được các địa phương, quan tâm chú trọng, cải tiến về cách thức, hình thức lẫn nội dung. Tập trung truyền thông, giới thiệu, quảng bá du lịch bằng nhiều hình thức và ứng dụng có hiệu quả, đã tạo hiệu ứng lan tỏa, rộng khắp hình ảnh, điểm đến du lịch Bến Tre đến với du khách trong và ngoài nước. Công tác đào tạo, tập huấn về du lịch được ngành du lịch và các doanh nghiệp cơ sở kinh doanh du lịch được quan tâm triển khai thực hiện nên chất lượng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh ngày càng được nâng lên theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Chương trình thỏa thuận, hợp tác liên kết phát triển du lịch với các tỉnh, thành phố trong cả nước nhất là với Cụm liên kết phát triển du lịch phía Đông đồng bằng sông Cửu Long và Chương trình liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa Thành phố Hồ Chí Minh và 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy hiệu quả khá tốt.
Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, tình hình dịch bệnh Covid-19 nhưng với sự nỗ lực, quyết tâm của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngành du lịch đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tổng lượng khách du lịch đến Vĩnh Long mới giai đoạn 2020-2025 đạt hơn 26 triệu lượt, trong đó tỉnh Vĩnh Long (cũ) đạt 6,98 triệu lượt, tỉnh Bến Tre (cũ) đạt 9,04 triệu lượt, tỉnh Trà Vinh đạt 10,02 triệu lượt. Tổng doanh thu du lịch đạt trên 22.000 tỉ đồng, trong đó tỉnh Vĩnh Long (cũ) đạt 4.000 tỉ đồng, tỉnh Bến Tre (cũ) đạt 11.463 tỉ đồng, tỉnh Trà Vinh đạt 7.143 tỉ đồng; đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
Để phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2030 du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, ngành du lịch đứng trước nhiều thách thức và còn nhiều việc phải làm, nhất là tiếp tục nâng tỷ trọng đóng góp trực tiếp, gián tiếp trong GRDP của tỉnh, phấn đấu du lịch đóng góp 6-7% GRDP của tỉnh (hiện nay khoảng 4% GRDP); cải thiện tính chuyên nghiệp và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, cạnh tranh được với các tỉnh trong khu vực và cả nước thì đây là nhiệm vụ rất lớn đặt ra đối với ngành du lịch trong những năm tiếp theo, cần có sự quan tâm lãnh, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện của cả hệ thống chính trị và những giải pháp đột phá. Tại Đại hội hôm nay tôi xin trình bày các giải pháp đột phá khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh Vĩnh Long và rất mong quý đại biểu thảo luận, giúp ngành du lịch hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.
Thứ nhất, xây dựng du lịch tỉnh Vĩnh Long với phương châm “một cung đường 3 điểm đến”, trong đó mỗi địa phương trong tỉnh phải xây dựng hình thành điểm đến tiêu biểu, dựa trên tiềm năng và lợi thế đặc trưng của từng khu vực, trong đó Khu vực Trà Vinh (cũ) tập trung xây dựng trở thành đô thị du lịch xanh Trà Vinh; phát triển du lịch văn hóa, làng nghề trên cơ sở khai thác các giá trị truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer tại Làng Văn hóa, Du lịch Khmer Trà Vinh; phát triển du lịch biển gắn với các công trình điện gió, thu hút đầu tư phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn ven biển Duyên Hải.
Khu vực Vĩnh Long, thu hút hoàn thiện dự án đầu tư Dự án đầu tư khu lò gạch, gốm Mang Thít; Dự án khu du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng Cồn Giông; dự án Bảo tàng nông nghiệp vùng ĐBSCL kết hợp du lịch giải trí thực nghiệm nông nghiệp; dự án khu du lịch sinh thái cù Lao Dài; khu đô thị sinh thái, dịch vụ thương mại, vui chơi giải trí và du lịch Cồn Chim.
Khu vực Bến Tre tập trung phát triển du lịch gắn với “Văn hoá dừa”, tiếp tục hoàn thiện giao thông, bến cảng. Tập trung khai thác và phát triển loại hình sản phẩm du lịch đường sông, tuyến kết nối liên tỉnh và quốc tế. Tập trung mời gọi đầu tư và hình thành các khu, điểm du lịch trọng điểm: Mỏ Cày, Châu Thành, Thạnh Phú, phường Bến Tre, Giồng Trôm để phát triển các sản phẩm đặc thù: du lịch sinh thái sông nước, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa - lịch sử, nghỉ dưỡng ven biển.
Thứ hai, tiếp tục tham mưu tỉnh ban hành Đề án phát triển du lịch tỉnh Vĩnh Long đến năm 2030 và tham mưu UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư du lịch giai đoạn 2025-2030 toàn diện, trong đó chú trọng hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, du lịch xanh theo hướng bền vững.
Thứ ba, tập trung mời gọi các nhà đầu tư chiến lược xây dựng các khu, điểm đến tham quan, nghỉ dưỡng chất lượng cao, hướng đến hình thành các vùng du lịch trọng điểm với điểm nhấn “Văn hoá Dừa” “Văn hoá Khơ me” và “Gốm”. Đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết chế văn hóa, thể thao đủ điều kiện đăng cai các giải thể thao cấp khu vực và cấp quốc gia gắn với phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, thể thao, ẩm thực, giải trí…
Thứ tư, tiếp tục đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của ngành du lịch cho các cấp, các ngành trong việc khai thác và phát triển du lịch; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý và lực lượng lao động trong ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong giai đoạn mới.
Thứ năm, đổi mới phương thức xúc tiến du lịch dựa vào sức mạnh công nghệ, tăng cường mối liên kết với các tỉnh thành trong nước; các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh truyền hình, thông qua hình ảnh những người Vĩnh Long nổi tiếng,…để tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch Vĩnh Long. Xây dựng hệ sinh thái “du lịch thông minh”; Xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch; tận dụng các tiện ích của công nghệ gắn với việc cung cấp thông tin và đáp ứng nhu cầu cho du khách; kết nối dịch vụ du lịch; tăng cường công tác quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực du lịch gắn với công nghệ.
Thứ sáu, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý du lịch để nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành, quản lý của các cấp chính quyền đối với ngành du lịch. Thường xuyên phối hợp thanh kiểm tra để hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm soát chất lượng các dịch vụ du lịch, các doanh nghiệp lữ hành, đội ngũ hướng dẫn viên và giá cả, các cơ sở dịch vụ du lịch khác tạo sự an tâm, uy tín để thu hút khách du lịch đến tỉnh.
Kính thưa Đại hội!
Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh là chủ trương lớn luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, phối hợp các Sở, ngành địa phương giúp ngành du lịch hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030./.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin