Sông Mekong tạo ra một dòng chảy văn hóa đa sắc ngày càng trở nên quan trọng của nhân loại. Nhưng dòng chảy đó đang mất dần, nguồn tài nguyên nước của hàng trăm triệu cư dân các quốc gia trong lưu vực đứng trước những thách thức chưa từng có.
|
Năm nay, hạn mặn “đáo” lại, sông Mekong một lần nữa được nhắc đến với vai trò cung cấp và sử dụng bền vững nguồn nước. Ảnh: NDO |
Sông Mekong tạo ra một dòng chảy văn hóa đa sắc ngày càng trở nên quan trọng của nhân loại. Nhưng dòng chảy đó đang mất dần, nguồn tài nguyên nước của hàng trăm triệu cư dân các quốc gia trong lưu vực đứng trước những thách thức chưa từng có.
Mekong là “dòng sữa mẹ”
ĐBSCL đã từng trải qua những đợt hạn mặn gay gắt năm 2016 và 2020. Và năm nay, hạn mặn “đáo” lại, sông Mekong một lần nữa được nhắc đến với vai trò cung cấp và sử dụng bền vững nguồn nước.
Là một trong mười con sông lớn nhất thế giới, sông Mekong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng có chiều dài hơn 4.800km, diện tích lưu vực 795.000km2, lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 15.000 m3/s và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỷ m3 tại châu thổ, chảy qua lãnh thổ của 6 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Còn nhớ hồi tháng 4/2016- giữa lúc xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt ở ĐBSCL, nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế ngồi lại bàn giải pháp ứng phó. Chủ đề là vậy, nhưng vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các hội thảo này là việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn và “cuộc chiến” sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.
PGS.TS Lê Anh Tuấn- Cố vấn khoa học Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường ĐH Cần Thơ) khi đó đưa ra 2 nguyên nhân chính cho tình trạng khô hạn, đó là do thiên tai, bởi hiện tượng El Nino gây thiếu hụt lượng lớn nước mưa trong đầu mùa lũ; thứ hai là do nhân tai, khi các đập thủy điện ở thượng nguồn tích nước nên hạn chế dòng chảy xuống hạ lưu.
|
Mùa lũ, nhưng ở đầu nguồn tỉnh An Giang, nhiều năm qua nước lũ về cũng rất hạn chế. Ảnh: HOÀNG MINH |
Nhiều người vẫn gọi Mekong là “dòng sữa mẹ”. Chính dòng sông cung cấp nước, phù sa và nhiều thứ khác gắn liền với cuộc sống của hơn 60 triệu dân các nước, là một nguồn lực chính trong ngành thủy sản và nông nghiệp, sản xuất năng lượng và du lịch, đặc biệt có vai trò kinh tế quan trọng đối với tất cả các nước mà nó chảy qua.
Dân cư hạ lưu sông sử dụng dòng sông cho nhiều mục đích: nguồn nước uống, thức ăn, thủy lợi, thủy điện, giao thông vận tải và thương mại. Hàng triệu người khác ở Trung Quốc, Miến Điện (Myanmar) và cả ngoài ranh giới địa lý của lưu vực sông cùng hưởng các lợi ích từ sông Mekong.
Xa hơn về phía hạ lưu ở Campuchia, Biển Hồ- một trong những “vựa” thủy sản nước ngọt lớn nhất thế giới- được tạo thành từ sông Mekong. Gần một nửa số người dân Campuchia được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nguồn tài nguyên của Biển Hồ. Khi sông gần ra tới biển, tại ĐBSCL- nơi có khoảng 20 triệu người Việt Nam sinh sống. Ngoài những kết nối con người, sông Mekong cũng thể hiện mạnh mẽ những phạm vi có lợi ích chung và tính cạnh tranh. Do đó, tác động của sông Mekong trên các khía cạnh khác nhau: sinh kế của các cộng đồng ven sông, môi trường và đa dạng sinh học,... khiến cho con sông này trở thành một vấn đề trọng tâm trong lợi ích quốc gia và khu vực.
“Cuộc chiến” nguồn nước
Tình trạng khô hạn tại vùng ĐBSCL suốt nhiều năm qua khiến nhiều người choáng váng. Vùng đất trù phú và là vựa lúa lớn nhất cả nước, đóng góp chủ yếu cho thành tích xuất khẩu gạo từ 7-8 triệu tấn mỗi năm này đang trong tình trạng khô hạn và nhiễm mặn nặng do thiếu nước ngọt.
GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân- nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước, nguyên Chủ nhiệm Chương trình Nhà nước điều tra cơ bản tổng hợp ĐBSCL từng chỉ ra “đó là thách thức toàn cầu”, mà nguyên nhân là do việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong. Xâm nhập mặn tăng nhanh và nguy cơ nước biển dâng đang là những đe dọa sống còn đến vùng ĐBSCL, mà theo GS Nguyễn Ngọc Trân “thực sự đây đã là một lời nguyền sông Mekong đối với vựa lúa lớn nhất Việt Nam”.
|
Nước ở thượng nguồn sông Mekong về hạn chế đã kéo theo rất nhiều hệ lụy về sạt lở, giảm phù sa… cho vựa lúa và vùng cây ăn trái ĐBSCL nhiều năm qua. Ảnh: THANH LIÊM |
Là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất của bất cứ thay đổi dòng chảy nào trên sông Mekong, Việt Nam còn đồng thời chịu tác động kép của tình trạng môi sinh toàn cầu, cụ thể là tình trạng nóng lên của Trái đất và nước biển dâng. Điều đó khiến toàn bộ vùng hạ lưu sông Mekong ở Việt Nam sẽ có những biến động thay đổi tuyệt đối về môi sinh trong khoảng một thập kỷ tới. Tình trạng chung là thiếu nước trên lưu vực sông, tình trạng xâm nhập mặn và hạn hán sẽ ngày càng gia tăng và đó là một xu thế không thể đảo ngược.
Từ hệ thống đập, không chỉ người dân ĐBSCL, ngay cả khu vực hồ Tonle Sap liên quan tới nguồn sống và sinh kế của 3 triệu người Campuchia cũng bị ảnh hưởng nặng nề do việc xây dựng các đập thủy điện này. Không chỉ tạo ra thiệt hại nhãn tiền mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong tương lai.
Ngày 5/4/2023- cách đây hơn một năm, tại hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ tư được tổ chức tại Lào, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu cho rằng, lưu vực sông Mekong đang đứng trước những thách thức chưa từng có, bởi tác động của biến đổi khí hậu, sức ép phát triển kinh tế và sự gia tăng sử dụng nước nhanh chóng.
Hệ quả, nguồn tài nguyên nước Mekong đang bị suy thoái cả về số lượng và chất lượng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nỗ lực bảo đảm an ninh nguồn nước và an ninh lương thực cho tất cả các quốc gia. Giai đoạn từ 2010-2020, tổng lượng dòng chảy đã suy giảm từ 4-8%, trong khi các nước gia tăng sử dụng nước sông Mekong từ 5-12%. Bởi thế, dòng chảy từ thượng nguồn đổ về hạ du và ĐBSCL sụt giảm nghiêm trọng và thường xuyên phải đối mặt với các đợt hạn hán nghiêm trọng. Sự suy giảm dòng chảy cũng làm thay đổi chế độ lũ, giảm lượng phù sa về đồng bằng và gia tăng hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển.
Vì thế, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, cần đổi mới tư duy hợp tác, có bước đi đột phá để đáp ứng yêu cầu cấp bách, trong đó cần tái khẳng định cam kết mạnh mẽ, nghiêm túc tuân thủ và thực hiện hiệu quả Hiệp định Mê Công 1995, cũng như Bộ Quy chế sử dụng nước trước đó.
Qua đó, Thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia các hoạt động của Ủy hội sông Mekong quốc tế với tinh thần hợp tác, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của tất cả các quốc gia và người dân, cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Với việc các đập thủy điện xây dựng ở thượng nguồn sông Mekong, các chuyên gia dự báo vào năm 2040 vùng ĐBSCL chỉ còn không tới 5 triệu tấn phù sa mỗi năm, giảm hơn 9 lần so với hiện nay và gần 30 lần so với cách đây 15 năm.
|
HOÀNG MINH