Đại biểu Lưu Thành Công (đơn vị tỉnh Vĩnh Long) tán thành cao quy định ưu đãi cho vay vốn đối với doanh nghiệp (DN) sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số, song tại buổi thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Việc làm được Quốc hội tổ chức vào chiều 21/10/2013, ông cũng đề nghị: cần mở rộng ưu đãi cho DN ở ngành nghề sử dụng lao động có trình độ
Đại biểu Lưu Thành Công (đơn vị tỉnh Vĩnh Long) tán thành cao quy định ưu đãi cho vay vốn đối với doanh nghiệp (DN) sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số, song tại buổi thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Việc làm được Quốc hội tổ chức vào chiều 21/10/2013, ông cũng đề nghị: cần mở rộng ưu đãi cho DN ở ngành nghề sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Phóng viên Báo Vĩnh Long tại kỳ họp đã ghi lại ý kiến đóng góp của đại biểu Lưu Thành Công.
Về quan điểm, tôi rất đồng tình lần này Quốc hội cho ý kiến và biểu quyết thông qua Luật Việc làm. Tôi cơ bản thống nhất các nội dung trong báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội.
Đây là một luật chuyên ngành thể chế hoá đường lối của Đảng, Nhà nước về việc làm trong điều kiện hiện nay khi Bộ luật Lao động chỉ mới điều chỉnh với khu vực có quan hệ lao động bao gồm hơn 30% đối tượng làm công hưởng lương, còn lại hơn 60% chưa được điều chỉnh.
Dự thảo luật Việc làm lần này ra đời đáp ứng tính cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hướng đến hoàn thiện các chính sách pháp luật về việc làm, thúc đẩy bảo đảm việc làm, tạo việc làm bền vững cho người lao động, phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế và tham gia tốt thị trường lao động toàn cầu. Tuy nhiên, khi nghiên cứu dự thảo luật, tôi vẫn còn quan tâm một số vấn đề kính trình Quốc hội và Ban soạn thảo xem xét.
Vấn đề thứ nhất, Điều 12, Khoản 2 dự thảo quy định các đối tượng được ưu đãi vốn lãi suất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm đó là các hộ sản xuất kinh doanh, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số.
Quy định như thế này tôi cho là bao quát được các đối tượng thuộc nhóm yếu thế, tạo điều kiện cho nhóm người này tiếp cận được vốn ưu đãi đầu tư cho phát triển sản xuất vươn lên thoát nghèo.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn chung chung, chưa thể hiện được rõ trường hợp nào được coi là sử dụng nhiều người lao động thuộc các nhóm lao động kể trên. Trong khi đó ở Điều 12 Chính phủ lại không có thẩm quyền hướng dẫn thêm đối tượng được vay vốn ưu đãi. Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ thêm vấn đề này.
Cũng tại Điều 12 dự thảo luật quy định đối tượng được vay vốn ưu đãi từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm hướng đến nhóm người yếu thế trong xã hội, tạo điều kiện cho họ vươn lên thoát nghèo, nhưng theo tôi còn một đối tượng rất cần sự quan tâm hỗ trợ ưu đãi về vốn đó là những ngành nghề sử dụng người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Hiện nay chúng ta đang hướng đến xây dựng ngành kinh tế kỹ thuật cao, những ngành nghề này đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học đưa vào ứng dụng trong sản xuất kinh doanh và đời sống.
Nếu được quyền vay vốn hỗ trợ từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm giúp cho những ngành nghề này phát triển tốt hơn, chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu kinh tế công nghệ cao nhanh hơn.
Vì vậy, tôi đề nghị Khoản 2, Điều 12 thêm một Điểm c quy định đối tượng được ưu đãi vốn, đó là những ngành nghề sử dụng người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao. Đối tượng này đã được quy định tại Điều 5, Khoản 5 ưu đãi về việc làm nhưng chưa được quy định ưu đãi về vốn.
Vấn đề thứ hai, về chính sách việc làm công, tôi rất hoan nghênh Ban soạn thảo lần này đã đưa chính sách việc làm công vào dự thảo Luật Việc làm. Đây là chính sách mới lần đầu tiên được xem xét đưa vào quy định trong văn bản luật tại Việt Nam.
Với quy định này, sẽ tạo điều kiện cho những người chưa có việc làm, thiếu việc làm, những người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, người bị thu hồi đất tiếp cận được với việc làm, có thu nhập ổn định, vươn lên thoát nghèo.
Tuy nhiên, ở Điều 3, Khoản 6 giải thích từ ngữ về việc làm công, tôi cho rằng chưa thỏa đáng. Việc làm công không thể hiểu là việc làm tạm thời có trả công.
Theo cách hiểu chung của các nước đã thực hiện chính sách này thì đây là loại công việc mang tính chất ngắn hạn, được tạo ra thông qua các dự án công cộng của Chính phủ, nhằm mục tiêu hỗ trợ giải quyết tình trạng thiếu việc làm nhất thời xảy ra trên thị trường lao động.
Với tính chất này, việc làm công còn được xem là chính sách quan trọng nằm trong hệ thống chính sách an toàn lao động việc làm của một quốc gia. Nếu quy định như trong dự thảo luật thì chính sách việc làm công phạm vi thực hiện quá hẹp, chưa phát huy hết mục tiêu của chính sách này.
Vì vậy, tôi đề nghị phần giải thích từ ngữ tại Điều 3, Khoản 6 có thể viết lại như sau: "Việc làm công là việc làm mang tính chất ngắn hạn, được tạo ra thông qua các dự án công cộng của Chính phủ, nhằm mục tiêu hỗ trợ tình trạng thiếu việc làm nhất thời xảy ra trên thị trường lao động tại các địa phương".
Cũng ở chính sách này, luật đã quy định cụ thể hóa việc làm công ở Điều 19, Điều 20 gồm nội dung của chính sách việc làm công, đối tượng tham gia chính sách việc làm công, để làm rõ mối tương quan của chính sách việc làm công với chính sách thúc đẩy phát triển việc làm và để dễ dàng phân biệt chính sách việc làm công với một số chính sách hỗ trợ khác của địa phương.
Tôi đề nghị ở Điều 19 nên có thêm một khoản nói về mục tiêu của chính sách việc làm công, có thể viết như sau: "Mục tiêu của chính sách việc làm công là nhằm hỗ trợ tình trạng thiếu việc làm nhất thời ở địa phương", vì viết như vậy sẽ rõ hơn và khi tiếp cận với luật, người đọc sẽ dễ dàng nhận biết được mục tiêu, nội dung, đối tượng tham gia chính sách việc làm công.
Vấn đề thứ ba, ở Chương IV đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Đây là vấn đề tôi cho rất thiết thực, mang tính thực tiễn cao, tạo cơ hội cho người lao động được tham gia đánh giá kỹ năng nghề, được cấp chứng chỉ nghề quốc gia, giúp người lao động nâng cao tay nghề, có nhiều cơ hội việc làm hơn, duy trì được quan hệ lao động lâu dài đối với các đối tác, tạo cơ hội việc làm bền vững.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là việc giao hoạt động đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho các tổ chức quy định như trong Điều 32 tôi thấy chưa hợp lý bởi những lẽ như sau:
Thứ nhất, tuy dự thảo chưa quy định rõ các cơ sở dạy nghề hiện nay có được tham gia hoạt động đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề hay không nhưng theo nội dung tinh thần Điều 32 của dự thảo luật, bất kỳ cơ quan tổ chức nào cũng được công nhận tổ chức đánh giá kỹ năng nghề thì phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận và phải có đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân sự trong Khoản 1, Khoản 2, Điều 32.
Như vậy, trong trường hợp những nơi chưa có sẵn cơ sở vật chất trang thiết bị, nhân sự mà muốn thành lập tổ chức chuyên đánh giá cấp chứng chỉ nghề thì phải đầu tư mới, như vậy có lãng phí không? Tôi đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc kỹ vấn đề này.
Thứ hai, việc quy định cho bất kỳ cơ quan, tổ chức nào nằm trong Khoản 1, Khoản 2 cũng đều có thể thành lập tổ chức đánh giá cấp chứng chỉ nghề, theo tôi là không hợp lý.
Nếu như vậy các tổ chức này sẽ mọc lên tràn lan, việc cấp chứng chỉ nghề sẽ không hiệu quả. Theo tôi, muốn làm tốt công tác này luật nên quy định hướng đến việc phải có một hệ thống tiêu chuẩn phục vụ cho việc đánh giá, cần có hệ thống tổ chức đánh giá thực sự có trình độ chuyên môn và phải được quản lý thống nhất.
Do đó, tôi đề nghị luật quy định giao cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ đạo Tổng cục Dạy nghề quản lý thống nhất các tổ chức này.
THÚY QUYÊN (ghi)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin