Vị tướng tiên phong khai mở công cuộc đổi mới

01:11, 07/11/2012

Thời kỳ Võ Văn Kiệt làm Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh (1976-1982) không hề tình cờ lại chính là thời kỳ mở đầu khai phá đầy khó khăn gian khổ của công cuộc đổi mới. GS. Đào Xuân Sâm kể lại thời kỳ ấy với ấn tượng sâu sắc về vị tướng tiên phong Võ Văn Kiệt.


Đồng chí Võ Văn Kiệt góp ý quy hoạch TX Vĩnh Long lên thành phố.
Ảnh: TL

Thời kỳ Võ Văn Kiệt làm Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh (1976-1982) không hề tình cờ lại chính là thời kỳ mở đầu khai phá đầy khó khăn gian khổ của công cuộc đổi mới. GS. Đào Xuân Sâm kể lại thời kỳ ấy với ấn tượng sâu sắc về vị tướng tiên phong Võ Văn Kiệt.

Sống giữa vựa lúa sao cam chịu ăn cơm “bo bo”

Gắn bó với nghiên cứu và giảng dạy về lãnh đạo và quản lý kinh tế từ 1961, thời kỳ tôi làm việc say mê và chủ động nhất chính là từ lúc khởi đầu công cuộc đổi mới (1979) đến nay, giữa không khí sôi nổi mà tôi gặp ở thành phố mang tên Bác và ở người lãnh đạo Võ Văn Kiệt. Tôi ngưỡng mộ anh và học được ở anh nhiệt tình cách mạng và tâm huyết với sự nghiệp của Đảng, của đất nước cũng như lòng ham mê học hỏi, suy nghĩ và sáng tạo.

Nhớ đến anh, tôi nhớ trước hết hình ảnh người bí thư đã có vai trò tiên phong khai phá công cuộc đổi mới từ năm 1979, ngay sau khi có Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV). Chính từ thực tiễn hoạt động của mình, anh luôn nhắc tôi đi sâu tổng kết công cuộc Đổi mới phải bắt đầu từ thời mở đầu khai phá chứ không nên chỉ từ Đại hội Đảng VI (1986). Tâm đắc với gợi ý này, lại nhiều lần được trao đổi ý kiến với anh, tôi đã vững tâm hơn khi viết và công bố một số chuyên đề góp phần tổng kết công cuộc Đổi mới.

Cuối năm 1979, với công việc của mình tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, tôi vào TP Hồ Chí Minh với nhiệm vụ kép: tìm hiểu thực tế triển khai Nghị quyết 6 của Trung ương vừa ban hành, và giảng dạy tại Phân hiệu 2 của trường Đảng.

Lúc ấy đất nước trong thời kỳ khủng hoảng đang vô cùng khó khăn. Những ngày đầu làm việc ở Phân hiệu 2, tôi đã nếm trải “hương vị khủng hoảng”- mỗi ngày một bữa cơm gạo, một bữa cơm “bo bo”. Lần đầu tiên trong đời ăn cơm “bo bo”, tôi đã vui vẻ chấp nhận như một sự chia sẻ đối với khó khăn chung của đất nước.

Nhưng chính lãnh đạo và nhân dân thành phố khi đó lại không chấp nhận. Câu hỏi “Tại sao sống giữa vựa lúa lại cam chịu ăn cơm “bo bo”? Được đặt ra rất tự nhiên. Chính từ đó, lãnh đạo thành phố đã cho mở công ty kinh doanh lương thực, trên thực tế đã trở thành cứu tinh giúp nông dân được bán lương thực, dân thành phố được mua lương thực, thay cho chế độ thu mua phân phối cấp phát đang đi vào ngõ cụt.

Từ sau năm 1979, nghị quyết mới của Trung ương đã bước đầu chấp nhận sự tồn tại của thị trường tự do với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế. Khó khăn của người nghiên cứu và giảng dạy như tôi là hiểu được Nghị quyết mới đi vào cuộc sống như thế nào?

Và thực tế khai phá đổi mới sôi động của TP Hồ Chí Minh trong nhiệm kỳ của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã lôi cuốn tôi thâm nhập vào cuộc để tìm chất liệu sống cho việc nghiên cứu giảng dạy. Tôi đã gắn bó với thành phố năng động này vừa như một người học trò say mê tìm tòi kinh nghiệm, vừa như một người giảng dạy và góp sức tổng kết thực tế.

Cuộc đổi mới “cùng tắc biến”

Để hiểu đúng vai trò nhân tố mới của TP Hồ Chí Minh và vai trò tướng tiên phong của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, cần xét toàn cảnh cuộc khai phá đổi mới trên cả nước từ năm 1979. Đó là cuộc khai mở rất cơ bản, do đó đã phải vượt qua những ngập ngừng do dự, thậm chí lùi bước, nhưng đó là một cuộc đổi thay tất yếu.

Từ 1977 đến 1979, việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV vấp váp và tổn thất trên tất cả các mặt công nghiệp hóa, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý. Sản xuất bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng, nhất là ở phía Nam . Tình hình đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm giải pháp mới. Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV ra đời chính là câu trả lời.

Nghị quyết là nấc thang đầu tiên của việc đổi mới tư duy kinh tế, thể hiện ở việc chấp nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do đến mức nhất định, trong khi vẫn giữ quan điểm cơ bản và lâu dài là chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch tập trung trực tiếp. Đây có thể được coi là nấc thang mới, thậm chí bước đột phá trong đổi mới tư duy so với đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế XHCN: chế độ công hữu hoàn toàn và chế độ kế hoạch hóa trực tiếp.

Nghị quyết còn là cột mốc phân biệt thời kỳ đổi mới từ sau 1979 với thời kỳ của những cuộc vận động cải tiến quản lý kinh tế trước đó đặt trong khuôn khổ nghiêm ngặt của đường lối chính sách cũ. Những sai lầm, thất bại trong cải tạo, hợp tác tập thể hóa cũng như về cơ chế quản lý trong những năm trước đổi mới, có nguyên nhân cơ bản từ mặt sai lầm của đường lối chính sách khi không thể quy trách nhiệm cho đông đảo người thừa hành. Trong thời gian ấy, những sáng kiến như sử dụng kinh tế tư nhân, cá thể, mua bán theo giá cả tự do, “khoán hộ”, đều bị lên án vì trái với đường lối chính sách. Từ khi có Nghị quyết 6, những sáng kiến như thế đã được chấp nhận nhưng cũng không hề đơn giản nhẹ nhàng.

Hai nhà lãnh đạo lớn thời đó- Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng- chính là những người khởi xướng và chủ trì tổ chức bước đột phá mang tên Nghị quyết Trung ương 6 năm 1979. Các lớp học trang bị kiến thức mới được mở cho đông đảo cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động nghiên cứu trù bị được tiến hành và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết khai mở chính sách mới với sự nhất trí rất cao trong Đảng.

Nghị quyết đã mở ra những đột phá có hệ thống trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trên quy mô tỉnh thành phố. TP Hồ Chí Minh với ngọn cờ đổi mới của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, là địa bàn nổi tiếng năng động. Thành phố đã thực hiện hiệu quả việc chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang hạch toán kinh doanh; khai mở kinh doanh công thương nghiệp ngoài quốc doanh; mở mang xuất nhập khẩu và đặc biệt là tổ chức kinh doanh bảo đảm lương thực cho thành phố.

An Giang với Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Hơn và Long An với Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính đã thực hiện thành công cơ chế mua lương thực, nông sản, vật tư và hàng tiêu dùng theo giá thị trường, thay cho cơ chế thu mua phân phối hiện vật trong quan hệ giữa Nhà nước với nông dân và người ăn lương. Đó là nguồn kinh nghiệm quý để Trung ương tổng kết mở rộng áp dụng trên cả nước từ 1985 đến 1989.

Trong khi đó Hải Phòng với Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo và Chủ tịch Đoàn Duy Thành đã thực hiện thành công cơ chế khoán mới trong hợp tác xã nông nghiệp, trực tiếp giúp Trung ương tổng kết và ban hành Chỉ thị 100 thực thi khoán mới trên cả nước.

Khó khăn không đẩy lùi bánh xe đổi mới

Trong công cuộc xây dựng kinh tế ở nước ta, lần đầu tiên diễn ra một tình hình chưa từng có- một phong trào quần chúng năng động phát triển sản xuất lưu thông: phong trào nông dân nhận khoán, phong trào phát huy tự chủ năng động của đơn vị cơ sở và địa phương với những điển hình làm ăn hiệu quả.

Nhưng mặt khác, sự bung ra của thị trường tự do, với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, ngày càng lấn át đục khoét kinh tế quốc doanh và “thị trường có kế hoạch”. Hợp tác xã ngày càng rệu rã. Mặt trận giá, lương, tiền- phân phối lưu thông cực kỳ rối loạn, nóng bỏng. Nhà nước bị tổn thất lớn về của cải, ngày càng rơi vào thế gần như mất khả năng điều khiển.

Trước thực trạng đó, đã có nhiều cuộc tranh luận kéo dài và gay cấn về lý luận và chính sách kinh tế trên tất cả các mặt: cải tạo, sử dụng kinh tế tư hữu và thị trường tự do, khoán sản phẩm, hạch toán kinh doanh của đơn vị cơ sở, phân cấp quản lý kinh tế và kế hoạch hóa, cơ chế xử lý giá, lương, tiền… Câu hỏi chung đặt ra là: Không thể không chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhưng liệu có đảm bảo được “kinh tế xã hội chủ nghĩa”? Có còn quốc doanh hợp tác xã và thị trường có tổ chức ngày càng mạnh lên? Hay tất yếu sẽ trượt dài sang cơ chế thị trường vốn bị coi là nguy cơ đe dọa CNXH lúc đó?

Trong các cuộc tranh luận, có hai xu hướng trái ngược: xu hướng chấp nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần như chiến lược lâu dài; và xu hướng chấp nhận nó như bước lùi sách lược tạm thời, gắn với những nhận thức khác nhau về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng nền kinh tế ấy.

Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (1979) đến Đại hội V (3/1982), xu hướng khai mở cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế quản lý mới là xu hướng nổi bật. Nhưng từ sau Đại hội V năm 1983, trước những khó khăn về kinh tế xã hội, xu hướng quay lại chính sách và cơ chế cũ lại nổi lên.

Nhưng thực tế cho thấy nhiều địa phương và doanh nghiệp nhà nước đã có kinh nghiệm thành công trong kinh doanh, mua bán thực sự theo giá cả thị trường; thoát khỏi nạn “mua như cướp, bán như cho” và nghịch cảnh “mua không được, bán không được” mà Nhà nước đang gặp phải. Trong bối cảnh đó, từ năm 1985 lại nổi lên xu hướng khai mở mạnh mẽ hơn cho cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và thị trường tự do.

Đến tháng 8/1986, Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, đã ra văn kiện kết luận về quan điểm kinh tế, làm cơ sở biên soạn dự thảo văn kiện, được Đại hội VI thông qua thành quan điểm chính thống: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần như chiến lược lâu dài.

Đặt trong bối cảnh chung đầy trắc trở, khó khăn, phức tạp đó của bước chuyển cực kỳ quan trọng này, càng thấy rõ vai trò của các nhân tố mới, mà điển hình là TP Hồ Chí Minh với đường lối chiến lược của nhà lãnh đạo Võ Văn Kiệt.

Thành phố đã thực tế khai mở cuộc đổi mới rất cơ bản, toàn diện và thật sự là của dân, đồng thời tạo ra cục diện đổi mới không thể đảo ngược của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Đó là cục diện thuận dòng tiến hóa lịch sử và thuận lòng nhân dân.

GS. ĐÀO XUÂN SÂM (*)

(*) GS. Đào Xuân Sâm là người có cơ hội làm việc ở TP Hồ Chí Minh trong thời kỳ khai mở sôi nổi của công cuộc đổi mới, và sau này làm việc trực tiếp với ông Sáu Dân từ năm 1993 với tư cách thành viên Tổ chuyên gia tư vấn trực thuộc Thủ tướng.

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh