Kỳ 2: Những dòng chữ “thắp lửa”

02:09, 27/09/2012

Khi một người lính ngã xuống chiến trường, một trái tim ngừng đập thì tình yêu vẫn vượt thời gian tiếp tục sống cùng năm tháng, vì nó mạnh hơn cái chết. Tôi cảm nhận được một tình yêu như thế trong từng dòng chữ. Cho nên dù trăm năm sau hay lâu hơn nữa, nhật ký người lính vẫn luôn “thắp lửa” trong lòng dân tộc.

>> Kỳ 1: “Thế hệ Hồ Chí Minh”


Ông Huỳnh Văn Sáng chỉ nơi đã tìm được nhật ký và kỷ vật người lính.

Khi một người lính ngã xuống chiến trường, một trái tim ngừng đập thì tình yêu vẫn vượt thời gian tiếp tục sống cùng năm tháng, vì nó mạnh hơn cái chết. Tôi cảm nhận được một tình yêu như thế trong từng dòng chữ. Cho nên dù trăm năm sau hay lâu hơn nữa, nhật ký người lính vẫn luôn “thắp lửa” trong lòng dân tộc.

Khát vọng tuổi trẻ

Khát vọng được cống hiến đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ “phần đời” của tác giả hiện lên trong nhật ký. Mang bầu máu nóng của tuổi trẻ vừa rời ghế nhà trường, được nhận nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy và tham gia các mặt công tác khác tại địa phương. Có điều đáng quý là người chiến sĩ trẻ ấy đã luôn xác định rất rõ lý tưởng cách mạng ngay cả khi nhắc đến những sự kiện rất riêng tư của gia đình: “Ngày 4/6/1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. có cảm nghĩ mới lạ. Khi học tập phải cố gắng với bổn phận của mình để xứng đáng là đứa con yêu của ba má, đứa em của các chị, đứa con của cách mạng, của Đảng”.

Hiện thân cho lý tưởng đó, chính là hình tượng anh Nguyễn Văn Trỗi, đã được hàng vạn thanh niên thề nguyện “sống như anh”. Hình ảnh người anh hùng trẻ tuổi bất khuất, kiên cường vào thời điểm đó đã trở thành thần tượng của nhiều thanh niên yêu nước. Do đó, trong hành trang của người lính trên đường ra trận thường mang theo hình ảnh anh Trỗi. Riêng chị- người lính và tác giả cuốn nhật ký- đã xem anh Trỗi như là tấm gương sáng để noi theo trong học tập, chiến đấu. Bức ảnh của anh Trỗi kèm trong kỷ vật của chị, có dòng chữ: “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, một Nguyễn Văn Trỗi ngã xuống, hàng vạn Nguyễn Văn Trỗi đứng lên”. Trên đường hành quân vào ngày 10/10/1966, nhớ về anh Trỗi, chị viết: “Chỉ còn mấy ngày nữa là đến ngày kỷ niệm, ngày giỗ lần thứ 2 của anh Trỗi. Để thiết thực kỷ niệm ngày hy sinh anh dũng của anh, mình phải làm gì? Trong công tác đối với kẻ thù, đối với đồng chí, đồng đội phải như thế nào? Đạo đức người cách mạng, người cộng sản, đối với người thân yêu... đó là những vấn đề cần tính làm thế nào cho được tốt toàn diện...”.

Một trong 3 bài thơ ở những trang cuối, có bài “Nhớ anh”, chị viết nhân ngày giỗ anh Trỗi (15/10/1966): “Quên sao được tháng mười - sáu bốn/ Ngày 15 anh Trỗi đã hy sinh/ Vì quyền dân tộc của mình/ Tự do độc lập dân sinh giống nòi/ Anh đã chết nhưng anh vẫn sống/ Sống trong lòng nam nữ thanh niên/Tươi thêm giọt máu vào tim/ Hôm nay tôi lại nhớ đến anh/ Người đồng chí đấu tranh dũng cảm/ Gương anh khắc mãi trong tim/ Khí tiết cách mạng con đường Mác- Lê/ Nhớ anh, tôi nhớ lời anh dặn/ Nhớ anh, sống chiến đấu như anh/ Làm sao xứng với tuổi xanh/ Giải phóng đất nước đoạt thành ước mơ”.

Và trong những phút xao lòng, hình ảnh, cuộc đời anh Trỗi đã trở thành điểm tựa vững chắc cho chị tiếp tục vững vàng, kiên định sống chết với con đường mà mình đã chọn. “Ngày 21/1/1966: Đến gặp anh C. để bàn công tác. Một tin làm M. xúc động vô cùng: người thân (10T) đã rơi vào tay giặc hôm 8/1 (ngày đầu địch càn vào C2). M. buồn và suy nghĩ nhiều. Dù rằng đối với M. chưa có gì là kỷ niệm sâu sắc, nhưng trong lòng ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng ra, bước đầu của tình cảm riêng tư: Đó là tình đồng chí, là người bạn và coi như là người… lý tưởng của M. M. lại nghĩ đến tình yêu cao thượng của anh Trỗi- chị Quyên… Biến đau thương thành hành động, giờ đây M. phải làm tốt mọi công tác được giao…”.

Tôi đã đọc đi, đọc lại không biết bao nhiêu lần những dòng chữ ngắn gọn, chắt lọc từ sâu thẳm trái tim, mà tràn đầy tình cảm yêu thương, tràn đầy khát khao cống hiến, mãi mãi là lý tưởng sống cao đẹp cho tuổi trẻ hôm nay và cả mai sau.

Ký ức hào hùng

Nếu chỉ đọc những trang nhật ký mà không có cái nhìn tham chiếu lại vùng đất, chiến trường khu Đ trong những năm 1960 thì khó lòng hiểu một cách sâu sắc lòng quả cảm, ý chí kiên định của người lính hiện lên trên từng dòng chữ. Cũng như khó lòng hiểu hết tâm thế ra trận của một thế hệ trẻ, trong giai đoạn chiến trường cả nước trở nên vô cùng ác liệt. Có biết bao người con từ giã gia đình, quê hương, gác lại bao ước mơ hoài bão, hừng hực khí thế lao vào chiến trường không ngần ngại trăm ngàn gian khổ hy sinh. Diệu kỳ thay những dòng chữ “bình thản” dưới mưa bom bão đạn: “Một năm chiến đấu lịch sử đã trôi qua. Tiễn năm 1965 ở thế kỷ 20, đến năm 1966 với nhiều nỗ lực trong công tác, với nhiều tình cảm ở lứa tuổi thanh niên. Kiên định lập trường giai cấp, chiến đấu anh hùng, đầy lòng tin sự tất thắng của cách mạng”.

Thực sự chiến khu Đ ngày ấy như một “chảo lửa” thiêu rụi mọi thứ, rừng cây trụi lá chết dần dưới chất độc hóa học “tưới như mưa”, bom cày xới từng tấc đất; chỉ có trái tim người lính tràn đầy niềm tin chiến thắng, tràn đầy tình yêu nước nồng nàn là vẫn vững vàng tồn tại. Ông Huỳnh Văn Sáng, người đã sinh ra, lớn lên và tham gia chiến đấu ngay trên mảnh đất quê hương Tân Uyên, còn nhớ như in những hình ảnh khốc liệt của chiến trường hồi đó: “Địch thả bom, rừng cháy suốt mấy ngày liền. Đêm nhìn rừng sáng rực cả một góc trời, cứ ngỡ như thành phố lên đèn. Thỉnh thoảng, những thân cây ngã xuống lớp tro than, thấy rõ những tàn lửa bắn lên tung tóe như ai bắn pháo hoa vậy. Còn chất độc hóa học địch đổ xuống như mưa xối trên đầu. Mọi người được trang bị cái bao trùm kín mặt, có lót một lớp than chống độc. Nhưng chiến đấu vừa chạy vừa ngộp đành phải lột bỏ chiếc bao, chừng nào chết thì hay chớ ngộp thở thì không chịu nổi rồi”. Người lính già cười khà khà, nhắc chuyện xưa, rồi lại lẩm nhẩm bài hát về miền Đông “gian lao mà anh dũng”.

Người lính già sống một mình trong căn nhà “tứ bề gió lộng”, vì không cần dừng vách. Xung quanh vườn bưởi xanh mịt, trĩu quả. “Mấy đứa lấy bao ra hái về ăn. Bưởi trồng để đãi khách, bán đâu có được mấy đồng”- ông nói với ra vườn, rồi xẻ bưởi rối rít mời khách. Lúc ông cười sảng khoái, lúc mặt đỏ bừng như Quan Công, khi lại trầm xuống đầy suy tư. Bàn thờ gia đình ông treo đầy những bằng khen, huân chương, bằng liệt sĩ, Bà Mẹ Việt Nam anh hùng…, giờ có thêm bàn thờ mấy liệt sĩ từ cái ngày mộ phần bị cày xới.

Không tin được không gian yên bình này đã từng là chiến trường ác liệt. Đã có biết bao nhiêu người đã ngã xuống, để làm nên giá trị cuộc sống hôm nay. Câu chuyện của người lính già, nối dài thêm câu chuyện từ quyển nhật ký bị “giấu kín” dưới lòng đất suốt gần 50 năm qua, sẽ tiếp tục đi cùng hôm nay và mãi mãi về sau. Mãi mãi không bao giờ dừng lại!

(Còn tiếp)

Bài, ảnh: QUANG THUẦN

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh