Thủy lợi Vĩnh Long- những dấu ấn sau giải phóng

03:05, 06/05/2012

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân, chính quyền tỉnh Cửu Long (gồm Vĩnh Long và Trà Vinh) nỗ lực xây dựng lại tỉnh nhà sau chiến tranh. Hơn 3 thập niên qua, thủy lợi đã trải qua những giai đoạn phát triển không ngừng, góp phần rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp-nông thôn và kinh tế-xã hội tỉnh nhà.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân, chính quyền tỉnh Cửu Long (gồm Vĩnh Long và Trà Vinh) nỗ lực xây dựng lại tỉnh nhà sau chiến tranh. Hơn 3 thập niên qua, thủy lợi đã trải qua những giai đoạn phát triển không ngừng, góp phần rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp-nông thôn và kinh tế-xã hội tỉnh nhà.


Kinh Trà Ngoa- công trình thủy lợi lớn của tỉnh năm 1978.

Thành tựu trong phát triển nông nghiệp- nông thôn

Ngay từ đầu, Đảng và Nhà nước ta chủ trương ưu tiên phát triển thủy lợi miền Nam, xem vùng ĐBSCL là trọng điểm số một. “Thận trọng nhưng khẩn trương, bước nhanh nhưng phải vững chắc”, đó là phương châm chỉ đạo của Bộ Thủy lợi cho công tác quy hoạch và xây dựng công trình thủy lợi ở đây ngay từ những năm sau giải phóng. Vừa áp dụng kiến thức và kinh nghiệm ở miền Bắc, vừa tiếp thu những khoa học, công nghệ mới, thủy lợi tỉnh Cửu Long nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng đã đạt những thành tựu to lớn trong cải tạo đất, thu hẹp diện tích chua phèn, mở rộng diện tích canh tác, chống ngập do lũ và triều cường, ngăn mặn, cấp nước phục vụ chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao đời sống hộ dân nông thôn.

Xác định tầm quan trọng của công tác thủy lợi trong phát triển kinh tế- xã hội, chính quyền và nhân dân tỉnh tập trung đầu tư ngân sách và huy động sức đóng góp trong dân cho công tác thủy lợi. Riêng sau khi tách tỉnh, từ năm 1996- 2010, thủy lợi tỉnh Vĩnh Long được đầu tư trên 620 tỷ đồng từ vốn nhà nước và nhân dân đóng góp, huy động hàng triệu công lao động thủ công làm thủy lợi, đào đắp gần 50 triệu m3 đất, xây dựng, cải tạo, nâng cấp trên 11.100 công trình thủy lợi lớn nhỏ. Đến nay, toàn tỉnh đã hình thành 3.540km bờ bao xung quanh 416 tiểu vùng sản xuất (ô bao thủy lợi) khép kín 101.000ha đất nông nghiệp (chiếm 86% diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh), cùng với trên 5.600 cống bộng, 14 trạm bơm điện trên bờ bao và trên 4.700 tuyến sông, rạch tự nhiên, kinh các loại dài gần 5.331km (trong đó có 3.400km được đào mới và cải tạo) kết hợp sử dụng làm công trình thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu cho hầu hết diện tích canh tác trong tỉnh. Ngày nay, đi về nông thôn, đâu đâu cũng có thể thấy những tuyến bờ bao chạy dọc theo những bờ sông, rạch. Nhiều công trình cống, đập kiên cố và nhiều tuyến đường đan, đường nhựa nông thôn được xây dựng trên đó. Phía trong bờ bao là những căn nhà khang trang dần mọc lên và những cánh đồng lúa, rau màu xanh tốt, năng suất nâng lên từng mùa. Thủy lợi tạo tiền đề cho kinh tế- xã hội nông thôn đổi mới. Cũng theo tính toán của ngành chuyên môn, thủy lợi cùng với các giải pháp khác đã góp phần đáng kể trong cải tạo đất phèn, tăng năng suất, sản lương thực.

Những dấu ấn phát triển

Giai đoạn từ sau năm 1975- 1985, đây là giai đoạn tỉnh Cửu Long tái thiết kinh tế- xã hội sau chiến tranh. Thủy lợi ở giai đoạn này chủ yếu phục vụ cho sản xuất lúa trong mô hình kinh tế tập thể. Công tác thủy lợi tập trung đào những kinh tạo nguồn tưới tiêu, cải tạo đất chua phèn, hạn chế ngập úng nhằm tăng diện tích canh tác, tăng vụ và tạo ra lương thực đủ tiêu dùng trong nước. Các công trình thủy lợi phần lớn thi công bằng thủ công với việc huy động hàng vạn lao động đào những kinh đào lớn như: Trà Ngoa, Ngãi Chánh (Vũng Liêm ), 3/2, Thống Nhất, Tầm Vu (Bình Minh), Chà Và (Tam Bình, Bình Minh)... Những vùng sản xuất lúa tập trung với những kinh đào thẳng tắp dọc ngang như bàn cờ đã được hình thành ở các xã Hiếu Phụng, Hiếu Thành, Trung Hiếu (Vũng Liêm). Những vùng đất thấp, thường xuyên bị “cầm thủy” lâu nay đã được tiêu thoát bằng hệ thống kinh đào. Thành quả lớn nhất của thủy lợi trong giai đoạn này là giúp giải quyết triệt để bệnh tim đọt sần, đã hoành hành trên cây lúa trong thời gian dài trước đó.

Từ 1986- 2000, kinh tế tỉnh Cửu Long chuyển theo cơ chế thị trường. Năm 1992, tỉnh Vĩnh Long được tái lập. Công tác thủy lợi tập trung đầu tư sâu vào phát triển thủy lợi nội đồng để đảm bảo nguồn nước tưới, tiêu phục vụ thâm canh tăng từ 1vụ lúa lên 3 vụ lúa trong năm, phấn đấu tăng sản lượng lúa để xuất khẩu và phục vụ cho chương trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp. Hàng loạt các công trình cống, đập được xây dựng, góp phần chủ động hơn trong điều tiết nước phục vụ sản xuất. Bộ máy quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi được thành lập và kiện toàn từ tỉnh đến huyện. Sau khi bão số 7 (năm 1999) xảy ra, nhu cầu xây dựng bờ bao chống lũ bảo vệ cho cây lúa, rau màu và dân cư bắt đầu.

Sau năm 2000, công tác thủy lợi có những chuyển biến và điều chỉnh lớn, đặc biệt là sau 3 năm lũ lớn năm 2000- 2002. Quy hoạch và xây dựng công trình thủy lợi không những nhằm mục tiêu phục vụ cho chuyển đổi sản xuất nông nghiệp còn phục vụ cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Quá trình “sống chung với lũ, tránh lũ” chuyển sang “chống lũ triệt để”. Nhân dân, Nhà nước đã nhanh chóng xây dựng bờ bao, đê bao ngăn lũ chắc chắn cho vùng cây ăn trái tập trung ở các cù lao trên sông Tiền, sông Hậu và cho cả vùng sản xuất 3 vụ lúa ăn chắc. Số lượng bờ bao gia tăng từ 2.700km (năm 2002) và 3.540km (năm 2010), tốc độ tăng bình quân 100km đê/năm. Đến giữa năm 2011, hơn 87% diện tích đất tự nhiên của tỉnh nằm trong bờ bao (hơn 129.700ha), còn 18.200ha nằm ngoài đê bao (trong đó có 100.400ha đất nông nghiệp, chiếm 86,42% diện tích nông nghiệp). Nhờ đó, sản xuất phát triển nhảy vọt, làm được 3 vụ lúa với năng suất ổn định, sản lượng lương thực ngày càng tăng, nhiều mô hình sản xuất nông-ngư nghiệp có hiệu quả kinh tế hình thành, các hoạt động văn hóa- xã hội được mở mang, giao thông phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhất là vùng nông thôn. Một số công trình thủy lợi có quy mô lớn được xây dựng như cống Nàng Âm, nạo vét lại kinh Trà Ngoa (Vũng Liêm, Trà Ôn),... thuộc dự án thủy lợi Nam Măng Thít; xây dựng kè chống sạt lở ở những vùng trọng điểm như thị trấn Cái Nhum, Tam Bình và TP Vĩnh Long, nạo vét kinh Cần Thơ-Huyện Hàm (Bình Tân)... Các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến được ứng dụng mạnh mẽ trong quy hoạch, thiết kế, thi công công trình.

Hơn 3 thập niên qua, thủy lợi đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội tỉnh nhà, nhất là khu vực nông thôn. Tuy nhiên, công tác thủy lợi sẽ không có điểm kết thúc, bên cạnh thu được những thành quả tích cực còn phát sinh những mâu thuẫn gay gắt trong tương lai mà ngành thủy lợi còn phải đối mặt, giải quyết: thủy lợi ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu- nước biển dâng, lũ, triều cường, hạn hán, thâm nhập mặn diễn biến thất thường; thủy lợi kết hợp phục vụ xây dựng nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp- nông thôn...


Số liệu khảo sát cho thấy, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long từ năm 1992 đến năm 2010, biện pháp tiêu rửa bằng thủy lợi làm giảm diện tích đất phèn phát triển từ 7.276ha xuống còn 6.025,14ha, làm giảm đất phèn tiềm tàng từ 84.953ha xuống còn 53.480,18ha; nâng diện tích trồng lúa cả năm lên mức cao nhất là 225.054ha (năm 1999).

Bài, ảnh: HÀ THÀNH THẶNG (TP Vĩnh Long)

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh