UAV của Israel “đương đầu” với nhiều khó khăn mới

06:06, 04/06/2013

Các hãng sản xuất phương tiện bay không người lái (UAV) Israel, vốn được coi là đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu UAV quân sự, hiện đang phải vật lộn với các quy định mới về xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng bởi theo đó, các sản phẩm của họ sẽ bị hạn chế bán cho các đối tác nước ngoài.

Các hãng sản xuất phương tiện bay không người lái (UAV) Israel, vốn được coi là đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu UAV quân sự, hiện đang phải vật lộn với các quy định mới về xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng bởi theo đó, các sản phẩm của họ sẽ bị hạn chế bán cho các đối tác nước ngoài.

Tờ nhật báo Globes của Israel cho biết, việc Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao nước này chấp thuận tuân thủ các điều luật thương mại mới đồng nghĩa với việc ngành xuất khẩu quốc phòng sẽ bị thắt chặt giám sát và doanh số bán UAV của các hãng quân sự nội địa như Israel Aerospace Industries, Aeronautics Defense Systems hay Elbit Systems cũng sẽ bị giảm đi đáng kể.

Đầu tháng 5, Công ty Tư vấn Kinh doanh Quốc tế Frost and Sullivan đã đánh giá Israel là quốc gia đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu UAV. Theo các số liệu tổng hợp, trong giai đoạn 2005-2012, kim ngạch xuất khẩu UAV của Israel (chủ yếu là các UAV giám sát) đạt hơn 4,61 tỉ USD, trong đó, 2005 là năm thành công nhất với giá trị sản phẩm đạt 1,7 tỷ USD.

Cũng trong giai đoạn này, tổng kim ngạch xuất khẩu quốc phòng của Israel tính trung bình hàng năm lên đến 6,1 tỉ USD, giúp nước này có mặt trong nhóm các nước đứng đầu về xuất khẩu quốc phòng như Mỹ, Nga, Pháp, Đức và Anh.

Nền công nghiệp UAV của Israel sẽ gặp nhiều "đối trọng" trong tương lai. Ảnh: defence.gov.au

Frost and Sullivan dự báo rằng đến năm 2020, xuất khẩu UAV của Israel sẽ tăng trưởng từ 5-10 %, một phần vì hầu hết các dự án phát triển UAV của các công ty Mỹ được xây dựng trên các nền tảng bí mật, đồng nghĩa với việc không được phép xuất khẩu.

Trong đó phải kể đến MQ-1 Predator và MQ-9 Reaper của General Atomics, 2 loại UAV được Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) và Các lực lượng đặc biệt Mỹ thường xuyên sử dụng để ám sát các phần tử al-Qaeda và đồng minh của tổ chức này ở Pakistan, Yemen và Somalia.

Thị trường xuất khẩu UAV chính của Israel là châu Âu, châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, trong đó Ấn Độ là “một mỏ vàng lớn”. Israel đang lên kế hoạch đầu tư tiếp thị mạnh mẽ tại các thị trường trên bởi nhu cầu về UAV ở các khu vực này đang ngày càng tăng lên đáng kể.

Tuy nhiên, nhật báo Globes đã phân tích rằng, mặc dù ngành sản xuất UAV của Israel đã trải qua một giai đoạn “như mơ” nhưng rõ ràng, các công ty này không thể lặp lại kì tích của năm 2005 bởi trong những năm gần đây, Bộ Quốc phòng nước này đã chặn một số hợp đồng UAV lớn của các công ty trong nước.

Cụ thể là trường hợp của Israel Aerospace Industries (doanh nghiệp nhà nước đứng đầu về công nghiệp quốc phòng nói chung và sản xuất UAV nói riêng), Elbit Systems, Aeronautics Defense Systems cũng như các công ty nhỏ hơn như Bluebird Aero Systems và Gilat Satellite Networks.

Phía Israel phần nào cảm thấy thất vọng sau khi hãng Northrop Grumman của Mỹ đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử đối với ngành công nghiệp UAV khi phóng thành công chiếc UAV X-47B từ tàu sân bay USS George H. Bush của Hải quân Mỹ vào trung tuần tháng 5 vừa qua.

Đây là một sự kiện mang ý nghĩa lớn bởi đó là chiếc UAV đầu tiên được phóng thành công từ tàu sân bay và điều đó sẽ cho phép Mỹ có thể tự do điều động máy bay không người lái từ bất cứ nơi nào trên thế giới và cách mạng hóa khả năng tác chiến của hải quân. X-74B dự kiến sẽ có buổi hạ cánh thử nghiệm trên tàu sân bay đầu tiên trong mùa hè này. Mẫu máy bay tiêm kích không người lái này có cự ly tác chiến lên đến 1.875 dặm, gấp ba lần so với UAV Predator của Israel .

Tờ Globes cũng cho biết, các công ty của Israel đã ca ngợi thành tích ấn tượng của Northrop Grumman nhưng đồng thời cũng bày tỏ quan ngại bởi thành công của X-47B sẽ đe dọa vị thế hàng đầu của họ trong lĩnh vực UAV.

Theo Elad Aharonson, Tổng Giám đốc Các tổ hợp không người lái của hãng Elbit Systems, phía Israel không được tiếp cận nhiều với những công nghệ UAV do Mỹ phát triển bởi chúng được xây dựng trên các nền tảng bí mật và là các sản phẩm không dành cho xuất khẩu. Người Mỹ phát triển UAV chiến đấu để làm thay nhiệm vụ của các máy bay chiến đấu truyền thống, trong khi các nhà sản xuất Israel chưa tập trung vào phân khúc này.

Đây là phân khúc đòi hỏi một khoản vốn đầu tư khổng lồ. Israel chỉ nhắm đến phân khúc UAV xuất khẩu và quan tâm đến việc sản xuất cả tổ hợp hơn là chú trọng phát triển các nền tảng mà khách hàng đang muốn hướng tới.

UAV Skylark của Elbit Systems được Quân đội Israel sử dụng cho mục đích thu thập dữ liệu tình báo và phát hiện mục tiêu. Bên cạnh đó là Hermes 450, một tổ hợp lớn hơn được Không quân Israel sử dụng, và Hermes 9000, sản phẩm hàng đầu của Elbit Systems.

Elbit Systems chuyên phát triển, cải tiến các linh kiện để tăng cường khả năng thu thập dữ liệu tình báo và các sản phẩm thường được thiết kế theo yêu cầu của khách hàng. Trong những năm tới, hãng này sẽ tiếp tục tập trung vào việc phát triển các linh kiện mới thay vì xây dựng các nền tảng mới.

Israel Aerospace Industries, Elbit Systems và Aeronautics Defense Systems đều đang phát triển UAV mới theo hướng nâng cấp tốc độ hoạt động, cũng như phát triển cả UAV tác chiến nội địa và trên biển.

Mặc dù đã có các quy định thắt chặt hoạt động xuất khẩu nhưng doanh số bán UAV cho các đối tác nước ngoài của Israel vẫn có thể tăng do phí sản xuất hiện tại tương đối thấp.

Các quan chức ngành công nghiệp nước này vẫn tự hào rằng mua một UAV tiên tiến rẻ hơn so với chi phí để đào tạo một phi công cho không quân. Cũng theo họ, trong vòng vài thập kỷ tới, các UAV của Israel vẫn sẽ đủ khả năng để thực hiện hầu hết các chức năng của máy bay có người lái trên chiến trường hiện nay.

Theo QĐND Online

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh