Nhận lệnh của thủ trưởng, ông Quỳnh dùng 24 tiếng để lên ý tưởng, vẽ thiết kế và thi công công trình lễ đài cho lễ Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
![]() |
Ông Nhân lưu giữ toàn bộ tư liệu về cha trong một cuốn sách được bảo quản cẩn thận tại nhà riêng (Ảnh: Nguyễn Ngoan). |
Sáng 1/9/1945, Hà Nội bừng tỉnh trong bầu không khí rộn ràng của những ngày vừa giành được độc lập. Ánh nắng thu dịu dàng trải lên mái ngói rêu phong, len qua từng con phố còn đẫm hơi sương.
Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh một mình đạp chiếc xe đạp cũ hướng về Quảng trường Ba Đình. Tiếng lốp xe nghiến nhẹ trên mặt đường đi qua từng góc phố. Ông Quỳnh vừa quan sát, vừa đo đạc bằng ánh mắt để tìm ý tưởng cho công trình lễ đài ngày Quốc khánh mới được Bác giao cho.
Trong tâm trí chàng trai 25 tuổi, từng đường nét, tỷ lệ của lễ đài dần hiện rõ, phải đủ uy nghi cho khoảnh khắc trọng đại, nhưng giản dị, tiết kiệm để phù hợp điều kiện đất nước, đồng thời kịp tiến độ gấp gáp mà Bác Hồ tin tưởng giao phó.
Trở về nhà, ông bắt tay vào công việc ngay lập tức. Chỉ trong hai tiếng đồng hồ, bản vẽ hoàn chỉnh đã ra đời. “Tính từ lúc nhận lệnh đến khi trình bản vẽ, bố tôi kể chỉ khoảng 12 tiếng”, ông Ngô Thành Nhân, con út của kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh, nhớ lại với giọng đầy tự hào.
![]() |
Ông Nhân lưu giữ toàn bộ tư liệu về cha trong một cuốn sách được bảo quản cẩn thận tại nhà riêng (Ảnh: Nguyễn Ngoan). |
24 giờ căng thẳng cho công trình lịch sử
Ngồi giữa căn nhà lưu giữ đầy kỷ vật gia đình, ông Nhân hãnh diện nhắc về người cha - kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh - người đầu tiên thiết kế lễ đài ngày 2/9/1945, cũng là một trong những nhân sự tham gia thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông Ngô Huy Quỳnh sinh năm 1920 quê ở thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Năm 1938, sau khi tốt nghiệp bậc trung học, ông thi đỗ Khoa Kiến trúc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương - ngôi trường danh giá bậc nhất Hà Nội và khắp xứ Đông Dương.
Năm 1943, ông ra trường, làm việc tại Văn phòng thiết kế của kiến trúc sư nổi tiếng Võ Đức Diên; cũng từ đây, ông gia nhập Việt Nam Cứu Quốc Hội, mở ra con đường hoạt động cách mạng.
Căn nhà nhỏ vợ chồng ông thuê ở số 22 phố Quang Trung dần trở thành địa chỉ lui tới của nhiều trí thức, nhà hoạt động yêu nước. Tháng Tám năm 1945, ông được điều về Nam Định tham gia xây dựng chính quyền cách mạng.
Thời điểm cách mạng thành công, ông trở về Hà Nội, sáng 1/9, một nhiệm vụ đặc biệt đến với ông: Thiết kế và chỉ đạo lắp dựng lễ đài tại Quảng trường Ba Đình - công trình phải hoàn thành trong vỏn vẹn một ngày một đêm.
Ông Nhân kể, nhiều năm trước cha mình từng thuật lại khoảnh khắc định mệnh ấy với báo chí. Hôm đó, khi đang ở nhà, ông Quỳnh được đạo diễn Phạm Văn Khoa tìm đến, truyền đạt yêu cầu của Kỳ bộ Việt Minh ngày 2/9, Bác Hồ sẽ đọc Tuyên ngôn độc lập, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Ông Khoa nhấn mạnh thêm: Lễ đài phải giản dị mà trang nghiêm, chắc chắn và đáp ứng, đủ chỗ cho khoảng 30 người.
![]() |
Bản phác thảo lễ đài cho Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trong Lễ Quốc khánh 2/9/1945 của ông Ngô Huy Quỳnh (Ảnh: Tư liệu). |
Thời gian gấp rút, ông Quỳnh hẹn 12h ngày 1/9 sẽ trình bản vẽ. Tiễn khách, ông vừa mừng vừa lo: Mừng vì được góp sức, lo vì phải tính toán thật chuẩn xác để kịp tiến độ. Lập tức ông thu xếp vài dụng cụ, đạp xe thẳng đến vườn hoa Ba Đình khảo sát hiện trường.
Đến nơi, ông đứng lặng quan sát toàn cảnh: Mặt bằng, hướng gió, những khối kiến trúc xung quanh… Từ trong đầu, các phương án lần lượt hiện ra. Ông phác thảo ba mẫu lễ đài.
Gần trưa, ông Phạm Văn Khoa quay lại. Bản vẽ đã sẵn sàng. Lúc này, ông Quỳnh cùng các đồng chí trong Hội Văn hóa Cứu quốc như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Ngọc Lợi, Ba Hương… xem xét kỹ lưỡng và thống nhất chọn phương án thứ nhất - một thiết kế được đánh giá là đơn giản, đẹp và phù hợp nhất cho giờ khắc lịch sử đang đến rất gần.
Đúng 12h30 ngày 1/9/1945, công việc dựng lễ đài tại Quảng trường Ba Đình chính thức bắt đầu. Vị trí được chọn là một bồn cỏ tròn nằm giữa quảng trường.
“Dù là người thiết kế, cha tôi vẫn trực tiếp xắn tay thi công cùng mọi người, bởi thời gian chỉ còn chưa đầy một ngày một đêm”, ông Nhân nhớ lại.
Không khí Hà Nội đầu tháng 9 năm ấy rạo rực niềm tin và khát vọng độc lập. Người người đều muốn góp sức cho giờ phút trọng đại.
Trong khi kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh miệt mài với bản vẽ thiết kế lễ đài, đạo diễn Phạm Văn Khoa dành cả buổi sáng bàn bạc cùng ông Quyến - một người thợ mộc ở phố Hàng Hành - để chuẩn bị thi công theo bản vẽ, đồng thời lo đi mượn gỗ và hai loại vải màu vàng, đỏ.
Ngay sau đó, ông Quyến huy động 10 người thợ bắt tay vào việc: Người cưa, người đục, không khí làm việc hối hả, rộn ràng. Cùng lúc, ông Quỳnh vận động thêm 40 người từ Hội Truyền bá Quốc ngữ - gồm Ban Cổ động, Ban Khánh tiết, Ban Giáo khoa - đến hỗ trợ, tạo nên một công trường sôi nổi giữa lòng Hà Nội.
Buổi chiều, nắng vàng tràn ngập vườn hoa Ba Đình, tiếng cưa, tiếng đục, tiếng đóng đinh vang rộn. Đồng bào sẵn sàng cho mượn gỗ, vải - cần bao nhiêu cũng đáp ứng. Gỗ và đinh được chuyển thẳng tới bùng binh Ba Đình, nơi các tốp thợ chia nhau làm việc tấp nập.
“Cha tôi chia sẻ, thời gian gấp rút là điều khó khăn nhất khi xây dựng lễ đài, nhưng lại có một điểm thuận lợi lớn để hoàn thành công trình là sự giúp đỡ nhiệt tình của người dân”, ông Nhân nói.
![]() |
Lễ đài nơi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 (Ảnh tư liệu). |
Ngay trong đêm 1/9, lực lượng bảo vệ được triển khai dày đặc quanh vườn hoa và dọc các tuyến phố dẫn tới Bắc Bộ phủ. Giải phóng quân của đồng chí Đàm Quang Trung phối hợp cùng tự vệ Hoàng Diệu và lực lượng vũ trang Thủ đô bảo vệ vòng ngoài. Không ai cảm thấy mệt, tất cả đều làm việc không nghỉ - từ người chôn trụ, dựng khung, bọc vải đến đội công nhân nhà máy điện lo ánh sáng suốt đêm.
Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đặc biệt chú trọng phần chống đỡ bục lễ đài, vì nó phải chịu sức nặng hơn hai tấn. Mặt đất Ba Đình khi ấy còn trống trải nên các trụ cột được chôn sâu xuống đất, vừa tiết kiệm gỗ, vừa tăng độ vững chắc. Khung gỗ được bọc vải, tạo khối kiến trúc trang trí hài hòa, đúng màu sắc yêu cầu.
Từ chiều tối tới rạng sáng, mọi người làm việc liên tục. Đến 3h ngày 2/9, lễ đài đã dựng xong, kịp cho đội kỹ thuật lắp loa và micro. Khi ánh bình minh vừa ló, công trình hoàn thiện: Cao hơn 4m, rộng và sâu hơn 4m, trên có cột cờ cao hơn 10m , hai bên đặt hai lư hương gỗ lớn. Ban Khánh tiết nhanh chóng bọc vải, trang trí hoa, chỉnh trang âm thanh.
Trước mắt ông Quỳnh, từng đoàn người từ khắp nơi đổ về Ba Đình, khí thế cách mạng ngùn ngụt. Cờ đỏ sao vàng tung bay rợp trời, biểu ngữ giăng khắp nơi: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chủ tịch”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm”, “Hồ Chủ tịch muôn năm”…
Khói trầm từ hai lư hương nghi ngút quyện cùng sắc đỏ vàng, tạo nên một không khí thiêng liêng khó tả, báo hiệu thời khắc lịch sử đang cận kề. Khi công việc thi công hoàn tất, ai nấy đều phấn khởi, quên hết mệt nhọc.
14h, buổi lễ mít tinh lịch sử bắt đầu. Khi Bác Hồ cùng các thành viên Chính phủ lâm thời bước lên bậc thang lễ đài, ông Quỳnh và nhiều anh em nghiêm trang đứng chào, tay phải giơ ngang vai. Rồi Hồ Chủ tịch cất giọng đọc Tuyên ngôn độc lập. Khi Bác dừng lại và hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”, hàng nghìn người đồng thanh hô: “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”…
“Cha ông nói lúc đó nước mắt mình trào ra vì sung sướng”, ông Nhân thuật lại.
![]() |
Ông Quỳnh (bên trái, đeo kính đen) đứng trang nghiêm chào Bác Hồ khi Người rời lễ đài sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập (Ảnh: Nguyễn Bá Khoản). |
Ba đời đều là kiến trúc sư, họa sĩ nổi tiếng
Sau dấu ấn để đời với công trình lễ đài cho ngày Quốc khánh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh tiếp tục gắn bó sâu sắc với sự nghiệp kiến thiết đất nước, đặc biệt là công tác quy hoạch và cải tạo Thủ đô Hà Nội.
Năm 1951, ông được Nhà nước cử sang Liên Xô học tập nâng cao chuyên môn. Trở về, ông trực tiếp tham gia nhiều đồ án quy hoạch lớn và giữ những vị trí quan trọng trong nhà nước. Sau khi Bác Hồ qua đời, ông cũng là một trong những kiến trúc sư tham gia thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
![]() |
Mô hình Lăng Bác do ông Quỳnh gìn giữ, đến nay vẫn được các con trân trọng bảo quản (Ảnh: Nguyễn Ngoan). |
Năm 1984, ông được phong học hàm Giáo sư và cho ra đời công trình nghiên cứu đồ sộ Lịch sử kiến trúc Việt Nam. Cuối tháng 5/2003, Giáo sư - Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 84, khép lại hơn 60 năm miệt mài cống hiến cho nền kiến trúc nước nhà.
Đến năm 2019, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, một con phố mới tại Khu đô thị Việt Hưng (phường Việt Hưng, Hà Nội) đã được vinh dự mang tên ông.
“Đó là vào năm 2022, khi dịch Covid-19 vẫn còn, gia đình tôi chỉ nhận được tin báo. Sau khi hết giãn cách, chúng tôi mới tới tận nơi để thăm con đường mang tên cha mình - một niềm tự hào không gì sánh được”, ông Ngô Thành Nhân chia sẻ.
Ông Nhân cho biết thêm, mới đây gia đình lại tiếp tục đón nhận tin vui: Một vườn hoa bên Long Biên cũng đã được đặt theo tên của Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh, như một sự ghi nhận trân trọng đối với những đóng góp to lớn của ông.
Nhờ tấm gương sáng của người cha, người ông, gia đình ông Nhân đã gìn giữ và phát huy truyền thống nghệ thuật, kiến trúc suốt ba thế hệ. Bản thân ông cùng các anh chị luôn tự nhủ phải nỗ lực học tập, rèn luyện để không phụ công lao dạy dỗ của cha.
![]() |
Tên ông Quỳnh được đặt cho một con đường tại phường Việt Hưng, Hà Nội (Ảnh tư liệu). |
“Cha tôi có năm người con. Anh cả hy sinh trong kháng chiến, bốn người còn lại thì ba người theo nghiệp cha, trở thành những kiến trúc sư có tiếng, công tác tại các cơ quan Nhà nước. Riêng tôi lại tiếp bước cha ở lĩnh vực hội họa - niềm đam mê mà thời trẻ ông từng theo đuổi”, ông Nhân chia sẻ.
Đến nay, các con và cháu của ông Quỳnh đều trở thành những kiến trúc sư, họa sĩ có uy tín trong xã hội. Mỗi dịp 2/9 hay khi đi ngang Quảng trường Ba Đình, các thành viên gia đình ông Quỳnh lại bồi hồi, xúc động. Hình ảnh Quảng trường năm ấy trong câu chuyện của cha như hiện ra trước mắt - vừa tự hào, vừa thiêng liêng.
Theo Nguyễn Ngoan/Dân trí
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin