Vĩnh Long- vùng đất cửa ngõ nơi hai nhánh Mekong chảy vào đất Việt. Long Hồ dinh- ký ức 300 năm mở mang bờ cõi xứ Đàng Trong- nơi hoàn tất cuộc Nam tiến kéo dài suốt 1.000 năm của dân tộc Việt Nam. Trải bao thế kỷ, đầy ắp những biến động- thịnh suy- thăng trầm- chìm nổi- bằng mồ hôi và máu lệ của bao lớp tiền nhân, cõi phương Nam mù sương chướng khí ngày nào đã biến thành những miền đất của cây lành trái ngọt.
“Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh”
(Ca dao)
Vẫn còn đó nét tài hoa, hào sảng của một miệt vườn xưa, nơi mà hai tiếng “bà con” được cất lên sao mà giản dị và gần gũi đến vậy.
Ở Vĩnh Long, có một nhân vật đặc biệt mà cả đời ông dường như gắn chặt với những biến cố lịch sử bi hùng của miền đất này. Sự hòa trộn giữa con người và lịch sử ấy mang một cái tên rất riêng: Dấu ấn Trịnh Văn Lâu. Theo Đảng, được dân nuôi- hai nguồn lực ấy như đôi sông chảy suốt mạch đời, cũng là hai dấu ấn không bao giờ phai trong đời ông.
![]() |
Đảng dạy, dân nuôi
Ông Trịnh Văn Lâu sinh ra trong một gia đình nghèo ở xã Vĩnh Xuân, huyện Cầu Kè (sau này là Trà Ôn). Năm lên 3 tuổi, ông mắc bệnh thương hàn tưởng chừng không qua khỏi như hai người anh. May mắn thay, nhờ tình mẹ không chịu buông, ông đã thoát khỏi tử thần, và ông xem đây là dấu ấn đầu tiên trong đời. Sống lại và lớn lên, dù là con thứ năm, ông sớm trở thành trụ cột gia đình từ năm 12 tuổi, sau khi cha qua đời và người anh thứ tư thoát ly làm cách mạng. Dù chỉ kịp học 3 năm tiểu học tại trường La Ghì, Vĩnh Xuân, ông luôn đứng đầu lớp học.
Cũng như nhiều thanh niên yêu nước cùng thời, tháng 4/1945, ông gia nhập Thanh niên cứu quốc, một tổ chức được Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập từ năm 1931. Ông đã có mặt trong sự kiện giành chính quyền từ tay giặc Pháp diễn ra vào ngày 20/8/1945 tại Vĩnh Xuân và Cầu Kè. Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn và tiến xuống Vĩnh Xuân, tình thế cách mạng nóng bỏng đẩy ông vào đội cảm tử quân của huyện, chính thức bước vào cuộc chiến đấu ác liệt.
Tháng 9/1947, ông chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Giữa năm 1949, ông phải chịu cú sốc lớn khi người anh thứ tư, ông Trịnh Văn Mưu, hy sinh khi đang là chính trị viên công an xung phong huyện, thi thể bị giặc chặt đầu và bêu ở TT Cầu Kè. Từ năm 1950-1954, ông về nhận nhiệm vụ Ủy viên Ban Tuyên huấn và Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Trà, được làm việc gần gũi với Bí thư Tỉnh ủy nổi tiếng Phạm Thái Bường (Ba Bường). Lúc này, Trịnh Văn Lâu đã là một cán bộ dày dạn, được tôi luyện qua nhiều môi trường, từ công tác chính trị đến kinh nghiệm tổ chức chiến đấu, đặc biệt là giai đoạn cuối năm 1949 khi ông làm Bí thư Chi bộ xã Hòa Ân, trực tiếp phục vụ chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh.
Là Bí thư Chi bộ, ông cùng Nhân dân dẫn đường cho bộ đội tấn công huyện lỵ Cầu Kè, bao vây, bứt rút các đồn ở Giồng Lớn, Bà My, Chùa Phật và đánh quân tiếp viện địch. Trong niềm vui chiến thắng của chiến dịch lớn nhất Nam Bộ ấy, ông đã gặp người bạn đời của mình, bà Đặng Thị Hớn, và cùng bà sánh vai trong đám tuyên hôn tập thể tại Huyện ủy Cầu Kè năm 1950.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7/1954, ông làm Trưởng đoàn tiếp quản huyện lỵ Tiểu Cần, chuẩn bị cho các đơn vị vũ trang miền Tây tập kết theo tinh thần Hiệp định Genève. Tiễn đồng chí đi tập kết xong, ông cùng đồng đội cất giấu vũ khí để bước vào đấu tranh chính trị, chờ hiệp thương tổng tuyển cử. Đầu năm 1955, đảng viên Trịnh Văn Lâu được bổ sung vào Tỉnh ủy Vĩnh Long, với nhiệm vụ hàng đầu là phát động quần chúng đấu tranh, đòi thi hành Hiệp định Genève ở miền Nam. Dù mang súng trong người, ông không được nổ súng để tôn trọng hiệp định, trong khi chính quyền Ngô Đình Diệm không ngừng bắt bớ và bêu đầu cán bộ kháng chiến. Ông và tập thể phải ẩn danh ngay trên quê hương mình, vùng đất do đối phương kiểm soát.
2 năm trôi qua, tổng tuyển cử bất thành, con đường kháng chiến dài lâu mở ra. Sống trong hầm bí mật, trong vườn cây được Nhân dân che chở, ông từng bước phát triển cơ sở Đảng ở các xã Hòa Bình, Xuân Hiệp, Tường Lộc. Phong trào lớn mạnh dần, ông lần lượt phụ trách thanh vận (vận động thanh niên), rồi binh vận tỉnh (vận động binh sĩ đối phương). Đồng thời, ông thay mặt Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện Cái Nhum, Châu Thành và TX Vĩnh Long. 8 tháng sau Đồng khởi năm 1960, Khu ủy Tây Nam Bộ chỉ định ông từ Thường vụ làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long trong giai đoạn 1961-1965.
Trên cương vị mới, ông Trịnh Văn Lâu lại gặp lại người thủ trưởng nổi tiếng, đồng chí Ba Bường, lúc này đã là Bí thư Khu ủy khu Tây Nam Bộ. Hai đồng chí, cấp trên và cấp dưới, nhưng lại như hai người anh em, rất tâm đầu ý hợp trong việc chỉ đạo phá ấp chiến lược, gỡ đồn bót, đánh địch phản kích, mở rộng vùng giải phóng. Khi đối phương triển khai chiến lược trực thăng vận đầy linh hoạt, ban đầu gây không ít khó khăn cho lực lượng cách mạng. Nhưng đầu năm 1963, chiến thắng Ấp Bắc đã chứng minh sức mạnh của quân dân ta.
Nhà báo Neil Sheehan đã viết về chiến thắng này: “Họ đã làm được nhiều hơn việc thắng một trận... Họ đã chiến thắng quân địch mạnh hơn họ. 350 Việt cộng đã giữ vững trận địa và hạ nhục một quân đội hiện đại với quân số lớn gấp 4 lần, trang bị xe bọc thép, trọng pháo, trực thăng và máy bay ném bom”. Chiến thắng ấy đã truyền cảm hứng cho ông Lê Đức Anh và ông Trịnh Văn Lâu với cách tác chiến: nắm thắt lưng địch mà đánh.
Tháng 6/1965, ông Trịnh Văn Lâu được điều về Khu 9 phụ trách Phó Ban Binh vận. Nhưng chỉ 1 năm sau, ông lại trở về Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long, Bí thư TX Vĩnh Long để chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân, mà Vĩnh Long được chọn là trọng điểm 2 của Khu 9.
Ngày 12/4/1970, ông bị địch bắt. Chúng biết rõ ông là Bí thư thị xã nên đã tra tấn, khai thác ròng rã suốt 3 tháng nhằm lấy thông tin quan trọng. Với khí tiết và sự khôn khéo, ông Trịnh Văn Lâu chỉ nói về những người đã bị bắt hoặc hy sinh. Bất lực trước tinh thần bất khuất của ông, ngày 14/7/1970, ông bị đày ra Côn Đảo mà không cần xét xử- nơi lẽ ra chỉ giam giữ những người có án.
Trong 5 năm bị giam tại Côn Đảo, ông đã qua các trại 1, 2, 6A, 6B, 7. Đây cũng là thời gian ông cùng bạn tù tạo ra những dấu ấn như chống chào cờ ly khai Đảng và cách mạng. Ông bí mật theo dõi tình hình đất liền qua radio để hiểu sự phát triển của cách mạng. Khi ông bị bắt, cách mạng đang gặp nhiều khó khăn sau Tết Mậu Thân, vùng giải phóng bị co hẹp. Nhưng sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng đã xoay chuyển tình thế, dẫn đến thắng lợi mọi mặt từ chính trị, quân sự, ngoại giao và cuối cùng là Hiệp định Paris, Mỹ rút quân. Chế độ Nguyễn Văn Thiệu suy yếu và sụp đổ.
Chiến tranh kết thúc tại nhà tù Côn Đảo là một dấu ấn hết sức đặc biệt. Khi làn sóng phát thanh truyền đi tuyên bố đầu hàng của tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh, tù nhân đã nổi dậy tự giải thoát. Từ chỗ bị giam cầm, họ trở thành những người chủ của hòn đảo. Trong khí thế đó, ông Trịnh Văn Lâu cùng đồng chí của mình tịch thu vũ khí địch, thành lập đảo ủy và chính ông được bầu làm Bí thư. Chính quyền cách mạng ra đời, kêu gọi viên chức chế độ cũ trình diện, và quan trọng bậc nhất là hát khúc khải hoàn, hân hoan trở về đất liền hòa cùng niềm vui chung của cả nước.
Nụ cười thủy chung, bất khuất
Sau thời gian ngắn được đưa ra Hà Nội rồi sang Liên Xô trị bệnh, tháng 10/1975, ông về nhận nhiệm vụ Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Vĩnh Long và sau đó là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Cửu Long từ tháng 1/1976-5/1980. Từ năm 1980-1984, ông kiêm thêm chức danh Chủ tịch UBND tỉnh Cửu Long.
Ông Trịnh Văn Lâu là người luôn chịu khó học hỏi, điều này được hình thành từ trong chiến tranh. Để tìm luận cứ giải quyết những vấn đề khó khăn của người Khmer, ông đã đọc cả bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Sông Đông êm đềm” để hiểu rõ hơn về văn hóa và tập quán của đồng bào dân tộc. Cùng với sự thay đổi, sửa sai trong chính sách, đặc biệt là trong nông nghiệp, ông đã tự tìm cho mình những bài học riêng hết sức sâu sắc.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong thương nghiệp và nông nghiệp, cùng mối quan hệ giá- lương- tiền trong nền kinh tế phi thị trường, đã khắc ghi trong đời những người cách mạng những bài học đắt giá. Hàng hóa khan hiếm, chợ đen thao túng thị trường, đồng tiền liên tục mất giá.
Trong tình thế đã thấy sai lầm nhưng chưa ai dám lên tiếng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Cửu Long và ông Trịnh Văn Lâu đã có cách riêng. Bà Đào Thị Biểu (Sáu Hòa, biệt danh Sáu Trầu), đại biểu Quốc hội khóa 7, đã đăng đàn trong sự hồi hộp của cả đoàn: “10 năm qua, chưa lần nào Nhân dân xao xuyến, bất bình, thậm chí phẫn nộ bằng đợt phá giá- lương- tiền vừa qua, rõ ràng là sai lầm và thiếu sót rất nặng, gây tổn thất lớn về lòng tin của Nhân dân”.
Tiếng nói mạnh mẽ ấy, chưa có tiền lệ, đã khắc sâu như một dấu ấn về sự dũng cảm nói lên sự thật của những người đại biểu dân cử từ miền Nam, từ Vĩnh Long. Nghị trường Quốc hội khóa 7 đã mở ra một trang mới cho vai trò của những đại biểu nhân dân. Tại Đại hội Đảng lần thứ 6, ông Trịnh Văn Lâu được bầu vào BCH Trung ương Đảng, phụ trách Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Từ tháng 6/1987-1/1991, trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, ông từng bước giải quyết những khó khăn tồn đọng nội bộ với tinh thần cầu thị nhưng kiên quyết, giúp nội bộ ổn định và kiện toàn nhân sự. Trong thời gian này, ông tích cực tác động Trung ương để xây dựng và củng cố tuyến giao thông biên giới hơn 200km, đặc biệt chú trọng các đồn biên phòng và chăm lo đời sống bộ đội. Tháng 2/1991, Bộ Chính trị một lần nữa chỉ định ông quay về nhận trách nhiệm Bí thư Tỉnh ủy Cửu Long.
Ở cái tuổi đáng lẽ được nghỉ ngơi, ông không thể thoái thác nhiệm vụ mới không kém phần khó khăn mà ông gọi vui là “gỡ rối” để ổn định tình hình Cửu Long trước khi tái lập Vĩnh Long và Trà Vinh. Tháng 4/1992, tỉnh Vĩnh Long được tái lập, và lần đầu tiên ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, tiếp tục được tín nhiệm tham gia BCH Trung ương khóa 7.
Năm 1999, ở tuổi 70, ông Trịnh Văn Lâu chính thức được nghỉ ngơi. Ông dành toàn bộ thời gian còn lại để tìm về những gia đình cơ sở mà ông cùng các đồng chí từng sống, chiến đấu, những nơi chốn làm nên cuộc đời “Đảng dạy, dân nuôi” của ông. Mỗi dòng ghi chép viết tay dày đặc về từng ngày tháng, con người chính là máu thịt của ông, những con người thuộc thế hệ đã làm nên một trầm tích văn hóa thời kháng chiến, nơi mà hai chữ “lòng dân” được khẳng định là đích đến của mọi con đường. Trong ghi chép của ông rất rành mạch về tên tuổi và tấm gương nhiều đồng chí đã hy sinh trong nhà tù Côn Đảo mà không thể trở về trong ngày hòa bình.
Tuổi càng cao, nỗi ưu tư lớn nhất của ông chính là câu chuyện học của đám trẻ quê nhà. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Khuyến học tỉnh Vĩnh Long, với kinh phí vận động mỗi năm hàng trăm tỷ đồng, người ta gọi ông là Ông Tư khuyến học. Ông cũng là thành viên sáng lập của Trường ĐH Cửu Long, ngôi trường đại học đầu tiên trên quê hương ông.
Với nước, với dân, ông đã hết mình. Sau hòa bình, với mẹ, ông tiếp tục làm tròn chữ hiếu, chăm sóc mẹ cho đến khi bà mất vào năm 1994, thọ 92 tuổi. Mẹ ông, bà Nguyễn Thị Đẩu, đã mãi là một Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Gần 70 năm cùng nhau nếm trải chiến tranh và hòa bình, ông bà Trịnh Văn Lâu có 6 người con, một con trai mất khi còn nhỏ. Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, người con trai thứ tư, anh Trịnh Văn Khởi, tình nguyện nhập ngũ làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Dù nhiều người khuyên ông giữ con ở hậu phương, ông vẫn tôn trọng ý chí của con, viết thư động viên con lên đường. Tháng 12/1980, anh Khởi hy sinh ở mặt trận của Quân đoàn 4. Thương con, ông làm thơ. Thương vợ, ông cũng làm thơ.
Trên chặng đường vắt qua 2 thế kỷ ấy, ở những khúc quanh gay gắt và khó khăn nhất vẫn luôn thấp thoáng một nụ cười thủy chung và bất khuất- nụ cười Trịnh Văn Lâu. Hành trình của đời ông đã in trong đất Cửu Long dấu ấn một con người góp vào đội ngũ tiền nhân rạng danh cho hậu thế.
NGUYỄN HỒ
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin