Hầu hết tài sản do chồng tôi đứng tên. Qua nhiều người quen của tôi nhắc nhở, tôi gợi ý về việc cho tôi đứng tên cùng thì chồng tôi có vẻ không vui. Vậy, những tài sản nào phải đứng tên chung? Đối với những tài sản trước giờ chỉ mình chồng tôi đứng tên thì xử lý như thế nào?
Vợ chồng tôi chung sống với nhau gần 15 năm, cùng cật lực làm ăn nên mua sắm được một số tài sản.
Hầu hết tài sản do chồng tôi đứng tên. Qua nhiều người quen của tôi nhắc nhở, tôi gợi ý về việc cho tôi đứng tên cùng thì chồng tôi có vẻ không vui. Vậy, những tài sản nào phải đứng tên chung? Đối với những tài sản trước giờ chỉ mình chồng tôi đứng tên thì xử lý như thế nào?
L.T.C. (Trà Vinh)
Trả lời:
Việc vợ chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung đã được pháp luật quy định, do vậy chị mạnh dạn bàn bạc với chồng chị để thực hiện điều này. Theo khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình: Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả vợ và chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 của Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu.
Riêng đối với tài sản chỉ có chồng chị đứng tên, chị yên tâm, vì theo khoản 2 Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP: Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng.
Luật sư TRẦN VĂN SỸ
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin