Phải trả lại đất lấn chiếm do cha chồng đã bán

12:04, 29/10/2024

(VLO) Tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) và đang chờ cơ quan chức năng giải quyết thì vườn cam đang thu hoạch của nguyên đơn bị đốn hạ dẫn đến mâu thuẫn càng gay gắt phải đưa nhau ra tòa.

Trong đơn khởi kiện ngày 7/8/2020, ông B.S.D. (ở TX Bình Minh) trình bày: Vợ chồng ông đứng tên QSDĐ thửa 98, diện tích 582,8m2. Nguồn gốc phần đất này do mẹ ông đứng tên và tặng cho ông vào năm 2010 nhưng đến năm 2013, ông mới đăng ký sang tên.

Trên thửa đất 98, ông D. có cất căn nhà cấp 4, phía trước trồng hơn 80 gốc cam khoảng 3 năm tuổi, thu hoạch mới 2 lần thì bà T.T.S.C. (ở cùng địa phương) vào chặt hết vườn cam của ông.

Ngày 2/11/2019, bà C. còn tự ý kéo lưới B40 chiếm phần đất diện tích khoảng 190m2 thuộc một phần thửa 98 của ông. Do đó, ông D. khởi kiện yêu cầu bà C. tháo dỡ hàng rào trả lại đất lấn chiếm, còn vườn cam bị chặt không yêu cầu bồi thường.

Tại đơn phản tố ngày 18/11/2020, bà C. trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp thuộc thửa 368, trước đây là của cha chồng bà C. cho vợ chồng bà quản lý, sử dụng.

Năm 1980, mẹ ông D. kê khai chương trình đất thì kê khai luôn diện tích đất ngoài mặt lộ khoảng 190m2 thuộc QSDĐ của vợ chồng bà.

Cụ thể, từ năm 1980-2004, vợ chồng bà canh tác và sử dụng phần đất này không có ai tranh chấp. Sau đó, do gia đình gặp khó khăn nên bà và các con đến TP Hồ Chí Minh làm thuê, chỉ có chồng bà ở nhà trông coi.

Đến năm 2014, khi bà và các con trở về chuẩn bị cất nhà thì phát hiện mẹ ông D. đứng tên 190m2 đất thuộc thửa 368 của bà. Khi đó, bà có yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng không thành.

Sau khi ông D. được mẹ chuyển cho QSDĐ nói trên, năm 2015, ông D. trồng cam trên phần đất tranh chấp thì bà có ngăn cản nhiều lần nhưng không được nên mới sang chặt số cam trên. Trước khi chặt cam, bà có đến yêu cầu ông D. dọn phá cam trả lại đất nhưng phía ông D. không chịu.

Còn phần lưới B40, bà rào từ đất của bà giáp với cổng nhà ông D. chứ không lấn chiếm nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông D.. Ngoài ra, bà C. còn yêu cầu tòa công nhận cho bà được đứng tên QSDĐ ngang giáp mặt lộ 5,5m, dài 35m thuộc thửa 98, diện tích thực đo là 166,6m2.

Tại bản án sơ thẩm, HĐXX của TAND TX Bình Minh không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà C., buộc bà phải tháo dỡ, di dời hàng rào trụ đá lưới B40 và một bếp tạm trả lại phần đất diện tích 166,6m2 cho vợ chồng ông D.. Vợ chồng ông D. có nghĩa vụ trả cho bà C. giá trị cây trồng khác trên đất hơn 3,8 triệu đồng. Bà C. không đồng ý nên gửi đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX căn cứ vào các chứng cứ thu thập được xác định: Phần đất tranh chấp có diện tích thực đo là 166,6m2 do vợ chồng ông D. đứng tên. Nguồn gốc phần đất này do mẹ ông D. mua của cha chồng bà C.. Sau đó, vợ chồng ông D. được mẹ tặng và đứng tên phần đất này.

Tại công văn ngày 28/7/2016 của Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường (thuộc Sở TN-MT tỉnh Vĩnh Long) cũng xác nhận: Theo tư liệu đo đạc thì phần đất trên do mẹ ông D. kê khai trong sổ mục kê ruộng đất và đứng tên đăng ký trong sổ địa chính.

Ngoài ra, công văn ngày 30/11/2021 của UBND TX Bình Minh cũng khẳng định, thửa đất 98 diện tích 582,8m2 do vợ chồng ông D. đứng tên được cấp giấy chứng nhận QSDĐ vào ngày 28/2/2013 là đúng quy định pháp luật.

Từ đó, có đủ cơ sở xác định phần đất tranh chấp thuộc chiết thửa 98-1 diện tích thực đo là 166,6m2 thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông D. nên án sơ thẩm buộc bà C. tháo dỡ, di dời hàng rào lưới B40 cùng vật kiến trúc khác ra khỏi phần đất tranh chấp để trả lại đất cho ông D. là có căn cứ.

Việc bà C. cho rằng gia đình bà sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 1980-2004 thì gia đình khó khăn về kinh tế nên đến TP hồ Chí Minh làm thuê, chỉ có chồng bà ở nhà quản lý.

Đến năm 2014, bà và các con về thì phát hiện mẹ ông D. đứng tên QSDĐ, bà có khiếu nại đến chính quyền địa phương nhưng không được giải quyết là không có căn cứ.

Vì qua các tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, phần đất tranh chấp qua quá trình biến động đất đai, cha chồng và chồng bà C. đều không đăng ký đất đai qua các thời kỳ.

Ngoài lời trình bày trên thì bà C. không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh phần đất tranh chấp là của cha chồng bà cho vợ chồng bà nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu được quyền sử dụng phần đất tranh chấp 166,6m2 của bà C..

Từ nhận định trên, HĐXX cấp phúc thẩm đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông D., buộc bà C. tháo dỡ, di dời hàng rào trụ đá lưới B40 và bếp tạm kết cấu khung cột tre, mái tôn để trả lại đất cho vợ chồng ông D.. Vợ chồng ông D. có nghĩa vụ trả lại cây trồng khác trên đất cho bà C. tương đương hơn 3,8 triệu đồng.

DIỄM PHƯỢNG

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh