Đối chiếu công nợ thể hiện đôi bên đã thanh toán xong giá trị hợp đồng (HĐ) nhưng sau đó, bên nhận tiền khởi kiện yêu cầu đối tác trả tiếp với lý do 2 bên thỏa thuận hùn số tiền đó vào việc chuyển nhượng (CN) đất.
Công ty X. và Công ty Q. (cùng ở TP Vĩnh Long) từng là đối tác làm ăn đã nhiều năm. Ngày 3/5/2018, giữa 2 công ty và bên thứ 3 là Công ty C. ký HĐ mua bán hàng hóa trị giá 1,7 tỷ đồng. Theo đó, Công ty C. thanh toán cho Công ty X. 60% giá trị HĐ tương đương hơn 1 tỷ đồng; Công ty Q. thanh toán cho Công ty X. 40% giá trị HĐ tương đương 680 triệu đồng.
Quá trình thực hiện HĐ và đối chiếu công nợ thể hiện các bên đã thanh toán xong các khoản tiền trên. Tuy nhiên, vào ngày 15/10/2020, Công ty X. khởi kiện Công ty Q. và người đại diện theo pháp luật là ông T.V.H. đòi số tiền hơn 890 triệu đồng. Trong đó, có 680 triệu đồng ông H. đại diện Công ty Q. hùn với Công ty X. mua 2 thửa đất và chi phí đặt cống thoát nước, san lấp mặt bằng, làm hàng rào hơn 210 triệu đồng. Việc góp vốn nhận CN đất nói trên không được Công ty X. và ông H. lập thành văn bản mà chỉ xác lập bằng lời nói. Sau đó, ông H. kê khai đứng tên quyền sử dụng đất (QSDĐ) và Công ty X. lý giải việc này là nhằm thuận tiện cho giao dịch, kê khai đăng ký QSDĐ vì nếu để công ty đứng tên thì phải xuất hóa đơn. Giá nhận CN 2 thửa đất trên thực tế là 1,2 tỷ đồng nhưng HĐ chỉ ghi hơn 378 triệu đồng và ông H. đang quản lý, sử dụng các thửa đất này.
Do quá trình làm ăn, ông H. vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Công ty X. trong một HĐ mua bán khác nên hai bên phát sinh tranh chấp. Từ đó, Công ty X. khởi kiện đòi Công ty Q. và ông H. liên đới trả lại số tiền hùn nhận CN 2 thửa đất và chi phí san lấp mặt bằng, đặt cống thoát nước, xây hàng rào tổng cộng hơn 890 triệu đồng.
Tại biên bản hòa giải ngày 11/1/2024 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty Q. do ông H. đại diện theo pháp luật trình bày: HĐ mua bán ngày 3/5/2018 được ký kết giữa Công ty X., Công ty C. và Công ty Q. là HĐ khống nhằm mục đích để Công ty Q. vay vốn giúp Công ty X.. Việc ông H. nhận CN 2 thửa đất là từ tiền cá nhân của ông thông qua ngân hàng cho vay và ông đã trực tiếp thanh toán cho bên CN. Sau đó, ông đứng tên QSDĐ và trực tiếp quản lý, sử dụng đất cùng tài sản gắn liền trên đất từ đó đến nay. Công ty X. cho rằng sau khi góp vốn nhận CN đất, Công ty X. tiến hành san lấp mặt bằng, đặt cống thoát nước và xây hàng rào với chi phí hơn 210 triệu đồng là không đúng sự thật, lý do 2 bên phát sinh tranh chấp là do mâu thuẫn cá nhân.
Người CN đất cho ông H. là bà Đ.T.C.N. trình bày: Tháng 5/2018, vợ chồng bà có ký HĐ CN cho ông H. 2 thửa đất. Việc CN trên là tự nguyện và có làm thủ tục đầy đủ theo quy định của pháp luật, thời điểm giao kết HĐ do 2 bên thực hiện và vợ chồng bà nhận tiền trực tiếp từ ông H. chứ không thông qua bất kỳ một đơn vị, tổ chức hay cá nhân nào khác. Bà N. cam kết lời trình bày của mình là đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Từ tài liệu, chứng cứ thu thập được, HĐXX cho rằng: Công ty X. khởi kiện ông H. nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho việc có dùng số tiền 680 triệu đồng để hùn với Công ty Q. và ông H. nhận CN 2 thửa đất. Quá trình xét xử, đại diện Công ty X. đã rút yêu cầu đòi Công ty Q. và ông H. trả 680 triệu đồng hùn mua đất song vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi số tiền hơn 210 triệu đồng san lấp mặt bằng, đặt cống thoát nước và xây hàng rào.
Xét Công ty X. làm nghề xây dựng mua vật liệu thi công ở nhiều nơi. Theo đó, HĐ đặt cống thoát nước giữa Công ty X. và đơn vị thực hiện không nêu rõ số lượng, chất lượng, địa điểm thi công ở đâu; HĐ mua cát san lấp cũng không nêu số lượng, địa điểm san lấp; HĐ giao khoán thi công xây hàng rào có ký kết nhưng không được cơ quan có thẩm quyền chứng thực, không nêu rõ quy cách xây dựng, cũng không có chứng cứ thể hiện đã thực hiện xong công việc và thanh toán tiền.
Trong khi biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 8/7/2024 của tòa thể hiện cống thoát nước đặt dưới lòng đất và hàng rào nằm trên đất thuộc kinh công cộng do Nhà nước quản lý chứ không nằm trong các thửa đất ông H. đứng tên. Tại vị trí các thửa đất của ông H. và kinh công cộng vừa san lấp mặt bằng, Công ty X. không chứng minh được đã san lấp bao nhiêu mét khối cát và cũng không chứng minh được số tiền đầu tư hơn 210 triệu đồng cho việc san lấp mặt bằng, đặt cống thoát nước, xây hàng rào nên yêu cầu đòi Công ty Q. và ông H. trả số tiền hơn 210 triệu đồng cho các khoản trên không được HĐXX chấp nhận.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin