Biết người đứng tên quyền sử dụng đất (QSDĐ) bị câm điếc bẩm sinh nhưng đôi bên vẫn dùng thủ đoạn gian dối ký hợp đồng chuyển nhượng nhằm che đậy giao dịch vay tiền nên bị tòa tuyên vô hiệu.
(VLO) Biết người đứng tên quyền sử dụng đất (QSDĐ) bị câm điếc bẩm sinh nhưng đôi bên vẫn dùng thủ đoạn gian dối ký hợp đồng chuyển nhượng nhằm che đậy giao dịch vay tiền nên bị tòa tuyên vô hiệu.
Bà L.T.H. (ở TP Vĩnh Long) bị câm điếc bẩm sinh, là chủ sở hữu thửa đất 111, diện tích 415m2. Trên thửa đất này có ngôi mộ của chồng bà H. và căn nhà cấp 4 do bà H. và con gái tên A.T. sinh sống.
Khoảng tháng 10/2017, con gái lớn bà H. là chị A.P. đang ở riêng, đến nhà ra dấu kêu bà H. đi làm thủ tục nhận tiền trợ cấp khuyết tật. Bà H. tin lời đã cùng chị P. đến phòng công chứng ký tên vào văn bản lập sẵn.
Sau khi ký xong, bà H. và chị T. vẫn sinh sống tại nhà và đất nói trên. Đến tháng 9/2022, chị P. cho biết thời điểm đó, chị gạt bà H. ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa 111 cho anh T.M.Đ. và hiện anh Đ. đã sang tên, thế chấp thửa đất này cho ngân hàng để vay tiền.
Do đó, bà H. khởi kiện yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 6/10/2017 giữa bà với anh Đ. và đề nghị tòa công nhận QSDĐ lại cho bà.
Chị P. thừa nhận: Năm 2017, chị có vay của anh Đ. 70 triệu đồng nhưng khi làm thủ tục vay thì anh Đ. yêu cầu phải làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ thửa 111 để làm tin đảm bảo thu hồi nợ sau này nên chị đến gặp và nói dối với bà H. là đến phòng công chứng ký tên làm thủ tục nhận tiền trợ cấp khuyết tật.
Chị P. xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà H. và anh Đ. là giả tạo để vay tiền. Thực tế, chị có vay 70 triệu đồng của anh Đ. nhưng sau đó chị tìm anh Đ. trả tiền thì không liên lạc được.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX nhận định: Thửa đất 111 là tài sản hợp pháp của bà L.T.H. được UBND TP Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 16/7/2015, trên đất có căn nhà cấp 4 do bà H. và con gái sinh sống đã nhiều năm. Ngày 6/10/2017, bà H. và anh Đ. xác lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa 111.
Tuy nhiên, bà H. bị câm điếc bẩm sinh, khi chị P. đến ra dấu kêu đến phòng công chứng ký giấy tờ để hưởng trợ cấp thì bà tin lời và ký tên vào văn bản mà không xem lại nội dung.
Quá trình tiến hành tố tụng, anh Đ. không dự hòa giải trình bày ý kiến, không có văn bản phản bác yêu cầu của nguyên đơn nên có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ký ngày 6/10/2017 không có sự tự nguyện của bà H., không thể hiện sự bàn bạc chuyển nhượng tài sản.
Hơn nữa, giá trị hợp đồng chuyển nhượng trong hợp đồng là 70 triệu đồng, thấp hơn giá trị thực tế 13 lần so với giá trị tài sản được thẩm định tại ngân hàng.
Mặt khác, từ khi ký hợp đồng chuyển nhượng đến nay, bà H. và con gái vẫn sinh sống trong căn nhà tại thửa đất trên, không có sự thanh toán giá trị hợp đồng và bàn giao tài sản cho anh Đ..
Quá trình tòa giải quyết vụ án, anh Đ. cố tình vắng mặt, không có ý kiến phản bác khi tòa thông báo kết quả công khai chứng cứ kèm theo tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp.
Do đó, HĐXX công nhận lời trình bày của nguyên đơn cùng các chứng cứ thu thập được và xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà H. và anh Đ. xác lập ngày 6/10/2017 không thể hiện ý chí tự nguyện của bên chuyển nhượng và các bên chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ giao kết trong hợp đồng.
Do hợp đồng này là giả tạo ký kết chỉ nhằm che đậy cho giao dịch vay tiền theo thỏa thuận miệng giữa chị P. với anh Đ. nên vô hiệu ngay khi ký xác lập.
Từ những phân tích trên, HĐXX đã tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 6/10/2017 giữa bà H. và anh Đ.; công nhận QSDĐ thửa 111 cho bà H. theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 2/2/2023.
Bà H. có trách nhiệm liên hệ cơ quan chức năng làm thủ tục cấp QSDĐ thửa 111 theo quy định. Đồng thời dành riêng cho anh Đ. quyền khởi kiện chị P. số tiền vay 70 triệu đồng và giải quyết hậu quả pháp lý do vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa 111 theo quy định của pháp luật.
DIỄM PHƯỢNG