Tranh chấp dai dẳng vì hợp đồng không rõ ràng

07:02, 20/02/2024

Chủ đất cho rằng số tiền đôi bên giao nhận là tiền đặt cọc, còn người khởi kiện bảo đó là tiền chuyển nhượng đất dẫn đến tranh chấp nhiều năm vẫn chưa có hồi kết.

Chủ đất cho rằng số tiền đôi bên giao nhận là tiền đặt cọc, còn người khởi kiện bảo đó là tiền chuyển nhượng đất dẫn đến tranh chấp nhiều năm vẫn chưa có hồi kết.

Trong đơn khởi kiện, ông N.K.Đ. (ở TP Hồ Chí Minh) trình bày: Ông T.V.H. là chủ sử dụng thửa đất 107 và 121 tọa lạc ở TP Vĩnh Long. Ngày 29/12/2018, ông và ông H. thỏa thuận chuyển nhượng 1/2 diện tích của 2 thửa đất trên với giá 950 triệu đồng. Do ông H. đang thế chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại ngân hàng nên không thể thực hiện thủ tục chuyển nhượng.

Do đó, đôi bên lập giấy tay chuyển nhượng đất, ông Đ. trả trước 450 triệu đồng, còn lại 500 triệu đồng sẽ thanh toán sau khi ông H. tất toán nợ ngân hàng lấy QSDĐ ra làm thủ tục chuyển nhượng. Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận xây bờ kè với tổng chi phí 300 triệu đồng, mỗi người hùn 150 triệu đồng nhưng ông H. chưa đưa tiền.

Đến ngày 7/7/2020, ông Đ. phát hiện ông H. chuyển nhượng các phần đất trên cho người khác nên phát sinh tranh chấp. Ông Đ. khởi kiện ra tòa yêu cầu ông H. tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển nhượng QSDĐ theo hợp đồng viết tay đã thỏa thuận và đồng ý trả tiếp số tiền 500 triệu đồng nhưng cấn trừ 150 triệu đồng tiền ông H. hùn xây bờ kè nên còn lại 350 triệu đồng.

Ông H. không đồng ý với lý do tiền ông và ông Đ. giao nhận vào ngày 29/12/2018 là tiền cọc chuyển nhượng đất. Theo đó, ông Đ. hẹn đến tháng 6/2019 sẽ thanh toán dứt điểm 500 triệu đồng còn lại.

Nếu quá thời gian trên, ông Đ. không trả đủ thì mất tiền cọc, còn ông H. không làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ thì phải bồi thường gấp đôi tiền cọc. Ông không có làm tờ hợp đồng viết tay chuyển nhượng 1/2 thửa đất 107 và 121, cũng không thỏa thuận miệng hay bằng văn bản với ông Đ. về việc hùn vốn xây bờ kè.

Do đến hạn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, ông H. gọi điện cho ông Đ. nhiều lần không được, đến quán nước 2 người thường tới trao đổi việc chuyển nhượng đất cũng không gặp coi như ông Đ. bỏ cọc nên ông H. đã chuyển nhượng đất cho người khác.

Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX không chấp nhận yêu cầu của ông Đ. về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 29/12/2018; công nhận ông H. tự nguyện trả lại tiền đặt cọc và chi phí san lấp, xây bờ kè cho ông Đ. tổng cộng hơn 682 triệu đồng; công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 7/7/2020 giữa ông H. với bên thứ ba là hợp pháp. Tuy nhiên, ông Đ. không đồng ý với phán quyết trên nên gửi đơn kháng cáo.

Tại phiên xử phúc thẩm, HĐXX cho rằng, tòa sơ thẩm tuyên hủy tờ hợp đồng viết tay ngày 29/12/2018 giữa ông Đ. và ông H. với lý do ông Đ. chỉ cung cấp bản photo làm mẫu nên không giám định được.

Tuy nhiên, qua đối chiếu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì ông Đ. đã cung cấp bản gốc nên việc tuyên hủy tờ hợp đồng viết tay ngày 29/12/2018 giữa ông Đ. và ông H. là chưa rõ ràng dẫn đến việc đánh giá chứng cứ không chính xác và giải quyết không đúng với nội dung vụ án.

Quá trình giải quyết vụ kiện, ông Đ. xác định khoản tiền trả cho ông H. là tài sản chung của vợ chồng ông nhưng tòa sơ thẩm chưa thu thập ý kiến và đưa vợ ông Đ. vào tham gia tố tụng là chưa đảm bảo quyền lợi của vợ ông Đ..

Ngoài ra, kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất tranh chấp so với diện tích trên giấy chứng nhận QSDĐ giảm 21,6m2 nhưng tòa sơ thẩm không thu thập ý kiến của các bên chuyển nhượng đất và chủ sử dụng các thửa đất giáp cận dẫn đến việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông H. với bên thứ ba không có mốc giới, không đúng với diện tích hiện trạng thửa đất; phần đất xây dựng bờ kè thì không xem xét thẩm định, định giá để xác định giá trị và có được phép xây trên đất công cộng không.

Từ đó, HĐXX cấp phúc thẩm đã tuyên hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND TP Vĩnh Long giải quyết lại với những nội dung cần làm rõ nêu trên, đồng thời thu thập thêm chứng cứ về số tiền chuyển nhượng đất giữa các bên, ai là người trực tiếp nhận tiền và sử dụng vào mục đích gì để xác định nghĩa vụ người liên quan đối với khoản tiền đã nhận.

Vậy là từ giao dịch không rõ ràng về nội dung, ông Đ. và ông H. phải tiếp tục chờ cơ quan chức năng làm rõ để đảm bảo việc phân xử đúng quy định, kéo dài thêm thời gian tranh chấp đã nhiều năm.

DIỄM PHƯỢNG

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh