Vợ vay tiền nhưng giấy xác nhận nợ không có chữ ký của chồng nên tài sản riêng của người chồng đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được hủy bỏ và không phải liên đới trả số nợ này.
Vợ vay tiền nhưng giấy xác nhận nợ không có chữ ký của chồng nên tài sản riêng của người chồng đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được hủy bỏ và không phải liên đới trả số nợ này.
Tại giấy xác nhận nợ ngày 27/3/2022, bà N.N.T. (ở TX Bình Minh) ghi có mượn của chị T.N.H. số tiền 6,3 tỷ đồng và hẹn sau 3 tháng sẽ trả đủ, cuối văn bản có chữ ký và họ tên của bên cho vay và bên vay.
Bà T. thừa nhận chữ viết, chữ ký và dấu lăn tay dưới mục bên vay trong giấy xác nhận nợ là của bà. Tuy nhiên, khi bị chị H. khởi kiện ra tòa đòi số nợ trên, bà T. cho rằng không quen biết, cũng không mượn tiền của chị H..
Trước đó, bà chỉ mượn của em trai chị H. 50 triệu đồng nhưng không có tiền đóng lãi nên bị gộp tiền lãi vào vốn thành 280 triệu đồng. Giờ bà chỉ đồng ý trả số tiền này, còn biên nhận nợ 6,3 tỷ đồng ngày 27/3/2022, bà T. cho rằng bà không tự nguyện viết mà do em chị H. cùng nhiều đối tượng giang hồ đến đe dọa, ép bà ký và lăn tay nên không đồng ý trả số tiền trên.
Quá trình giải quyết vụ kiện, chị H. khai: Khoảng năm 2020, bà T. mượn của em trai chị nhiều lần tổng số tiền 2,2 tỷ đồng. Nguồn tiền cho bà T. mượn là của chị đưa cho em trai. Đến đầu năm 2021, chị cùng em trai và bà T. gặp nhau chốt nợ, thống nhất số tiền 2,2 tỷ đồng chuyển sang bà T. nợ chị.
Việc thỏa thuận chuyển nợ này, các bên không lập thành văn bản. Sau đó, chị H. tiếp tục cho bà T. mượn tiền nhiều lần và khi đến nhà giao tiền, chồng bà T. có biết. Đến ngày 27/3/2022, chị H. và bà T. hẹn đến quán cà phê ở TX Bình Minh chốt nợ và bà T. tự nguyện ghi biên nhận nợ 6,3 tỷ đồng có ký tên, lăn tay điểm chỉ và em trai chị H. là người chứng kiến.
Do đó, chị H. yêu cầu vợ chồng bà T. liên đới trả số nợ trên đồng thời yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với 2 thửa đất chồng bà T. đang đứng tên để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ.
Tại đơn phản tố ngày 7/7/2023, chồng bà T. trình bày không có ký tên vào giấy xác nhận nợ, cũng không biết số nợ này nên không đồng ý liên đới cùng bà T. trả cho chị H. 6,3 tỷ đồng. Hiện 2 thửa đất đang bị tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là tài sản riêng của ông, được cha tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân và chỉ mình ông đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên yêu cầu tòa hủy quyết định phong tỏa tài sản của ông.
Theo HĐXX, bà T. thừa nhận giấy xác nhận nợ ngày 27/3/2022 do bà viết, ký tên và lăn tay nhưng bà không tự nguyện mà do em chị H. đe dọa, ép buộc nhận nợ vay và tiền lãi thành 6,3 tỷ đồng.
Lời khai của công an viên phụ trách ấp thể hiện trong năm 2022, bà T. nhiều lần điện thoại báo có người gây rối chứ không báo việc bị ép viết biên nhận, cũng không có lập biên bản sự việc. Ngoài lời trình bày này, bà T. không có chứng cứ chứng minh việc bị ép ký tên vào giấy xác nhận nợ ngày 27/3/2022 nên phải có nghĩa vụ trả số nợ 6,3 tỷ đồng là phù hợp quy định pháp luật.
Đối với yêu cầu chồng bà T. phải liên đới trả số nợ trên, mặc dù đây là khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nhưng chị H. không chứng minh được bà T. dùng số tiền này để tạo lập, mua sắm tài sản cho gia đình.
Biên nhận nợ ngày 27/3/2022 cũng không có chữ ký của chồng bà T. mà chỉ cá nhân bà T. viết, ký tên điểm chỉ. Chị H. cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh chồng bà T. biết và sử dụng số tiền bà T. mượn nên không đủ cơ sở buộc chồng bà T. liên đới trả nợ theo Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Từ những cơ sở trên, HĐXX đã tuyên bà T. phải có nghĩa vụ trả chị H. tiền vốn vay 6,3 tỷ đồng và tiền lãi 648,9 triệu đồng, tổng cộng hơn 6,9 tỷ đồng; chồng bà T. không phải liên đới trả số nợ này và 2 thửa đất chồng bà T. đứng tên đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng được hủy bỏ.
DIỄM PHƯỢNG