Vay tiền nhưng lại lập hợp đồng chuyển nhượng đất dẫn đến thưa kiện, tố cáo nhau vì bên cho vay cho rằng đã bị bên vay lừa đảo.
Vay tiền nhưng lại lập hợp đồng chuyển nhượng đất dẫn đến thưa kiện, tố cáo nhau vì bên cho vay cho rằng đã bị bên vay lừa đảo.
Ngày 11/5/2016, chị H.N.T.T. (ở TP Vĩnh Long) vay của chị T.T.H.M. 250 triệu đồng nhưng lại lập hợp đồng chuyển nhượng 2 thửa đất. Ngoài hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) được công chứng, cùng ngày 11/5/2016, đôi bên còn lập tờ giao kèo viết tay với nội dung trong thời hạn 5 tháng, chị M. cho chị T. chuộc lại 2 thửa đất. Nếu chị T. không nhận lại đất thì chị M. được toàn quyền sang tên, mua bán các thửa đất trên.
Chị T. cho rằng, từ tháng 5/2016-1/2018 đã trả tiền lãi cho chị M. tổng cộng 153,5 triệu đồng và trả nợ gốc 50 triệu đồng bằng các hình thức trả tiền mặt và chuyển vào tài khoản của chị M.. Do bản chất của giao dịch trên là vay tài sản nên chị T. khởi kiện yêu cầu tòa hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 11/5/2016 và đồng ý trả số nợ vay còn lại, chị M. phải giao trả 2 bản chính QSDĐ mà chị đã thế chấp.
Quá trình giải quyết vụ án, chị M. khẳng định không biết tờ giao kèo ngày 11/5/2016 và cũng không biết số tiền chị T. chuyển vào tài khoản vì chị kinh doanh nên thường xuyên giao dịch với khách hàng qua số tài khoản này. Chị M. không đồng ý với yêu cầu đòi lại QSDĐ của chị T. và đã gửi đơn tố cáo đến cơ quan điều tra yêu cầu xử lý chị T. về hành vi gian dối trong chuyển nhượng QSDĐ nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngày 8/8/2022, chị M. gửi đơn tố cáo chị T. và đã được Công an TP Vĩnh Long tiếp nhận. Qua xác minh, đến ngày 6/12/2022, Công an TP Vĩnh Long đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với đơn tố giác tội phạm của chị M. vì không đủ căn cứ xác định chị T. có hành vi lừa đảo. Chị M. không đồng ý với kết quả giải quyết này, tiếp tục khiếu nại đến nhiều cấp nhưng đều bị bác đơn. Tại tòa, chị M. cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ mới chứng minh chị T. thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên không được HĐXX chấp nhận.
Theo HĐXX: Ngày 11/5/2016, chị T. cùng chồng ký hợp đồng chuyển nhượng 2 thửa đất cho chị M. với giá 250 triệu đồng. Hợp đồng được công chứng ngày 11/5/2016 nhưng đến năm 2023, chị M. không yêu cầu giao đất và hiện chị T. vẫn đang quản lý, sử dụng các thửa đất này. Ngoài ra, cùng ngày 11/5/2016, chị T. và chị M. còn lập thêm tờ giao kèo thỏa thuận trong 5 tháng, chị M. cho chị T. chuộc lại đất.
Tại bản sao kê tài khoản của chị M. do ngân hàng cung cấp, thể hiện trong thời gian từ ngày 17/1/2017-30/1/2018, vợ chồng chị T. nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản của chị M. và tại biên bản ghi lời khai ngày 19/5/2023, chị M. cũng thừa nhận có nhận của chị T. 15 triệu đồng tiền nợ gốc. Từ đó, có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 11/5/2016 giữa chị T. và chị M. là giao dịch giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản nêu yêu cầu khởi kiện đòi lại 2 giấy chứng nhận QSDĐ của chị T. được chấp nhận.
Theo đó, HĐXX đã tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 11/5/2016 đối với 2 thửa đất chị T. đứng tên; buộc chị M. trả lại 2 giấy chứng nhận QSDĐ cho chị T. và chị T. phải có nghĩa vụ trả cho chị M. nợ vay cùng tiền lãi, tổng cộng hơn 336,2 triệu đồng.
DIỄM PHƯỢNG